Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
Bài Viết Của
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
Chúng ta không thuộc về thế gian, nhưng sống trong thế gian (Chúa nhật VII Phục Sinh – Năm B)
“Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Lễ Chúa Thăng Thiên – Năm B)
“Anh em hãy yêu thương nhau” (Chúa nhật VI Phục Sinh – Năm B)
Hãy ở lại trong Chúa Kitô (Chúa nhật V Phục Sinh – Năm B)
Mục Tử Nhân Lành (Chúa nhật IV Phục Sinh – Năm B)
Đức tin và bình an (Chúa nhật III Phục Sinh – Năm B)
Thấy để tin hay tin để thấy (Chúa nhật II Phục Sinh – Năm B)
Chúa Kitô đã sống lại, Allêluia! (Chúa nhật Phục Sinh – Năm B)
Chúa Giêsu là ai vậy? (Chúa nhật Lễ Lá. Tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa – Năm B)
Chết để được sống (Chúa nhật V Mùa Chay – Năm B)
(Tin để được cứu rỗi) Chúa nhật IV Mùa Chay – Năm B
Ðền Thờ sống động (Chúa nhật III Mùa Chay – Năm B)
“Hãy vâng nghe lời Người” (Chúa nhật II Mùa Chay – Năm B)
Sống Mùa Chay (Chúa nhật I Mùa Chay – Năm B)
Sống năm mới trong tâm tình tạ ơn, hy vọng và phó thác (Tết Nguyên Đán)
Cầu nguyện cho Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ (Mùng Hai Tết - Kính nhớ Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ)
Theo gương Chúa Kitô, chiến đấu chống lại điều ác (Chúa nhật V Mùa Thường Niên – Năm B)
“Thầy đã thắng thế gian” (Chúa nhật IV Mùa Thường Niên – Năm B"
Chúa mời chúng ta cộng tác (Chúa nhật III Mùa Thường Niên – Năm B)
Để nghe tiếng Chúa (Chúa nhật II Mùa Thường Niên – Năm B)
Chúa muốn mọi người được cứu độ (Lễ Chúa Hiển Linh)
Gia đình thánh, nơi có tình yêu thương (Lễ Thánh Gia – Năm B)
Lễ Giáng Sinh (Giáng Sinh và Quà Tặng)
Xin vâng để Chúa đến với chúng ta (Chúa nhật IV Mùa Vọng – Năm B)
Nhận ra Chúa trong đời sống hằng ngày (Chúa nhật III Mùa Vọng – Năm B)
Kinh Lạy Nữ Vương
Hãy dọn sẵn con đường của Chúa (Chúa nhật II Mùa Vọng – Năm B)
Chờ đợi và tỉnh thức (Chúa nhật I Mùa Vọng – Năm B)
Vương quốc tình yêu (Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ – Năm A)
Bài giảng lễ an táng cho một người tự tử
Biết dùng khả năng mình có để phục vụ mọi người (Chúa nhật XXXIII Mùa Thường Niên – Năm A)
Tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa (Chúa nhật XXXII Mùa Thường Niên – Năm A)
Để trở thành môn đệ đích thực của Chúa (Chúa nhật XXXI Mùa Thường Niên – Năm A)
Ðường nên thánh (Lễ Các Thánh Nam Nữ)
Yêu Chúa và yêu người (Chúa nhật XXX Mùa Thường Niên – Năm A)
Để nhận được ơn đại xá trong tháng cầu cho các tín hữu đã qua đời
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (Chúa nhật XXIX Mùa Thường Niên – Năm A)
Tiệc cưới Nước Trời (Chúa nhật XXVIII Mùa Thường Niên – Năm A)
(Bài hát) KINH LẠY CHA – KINH KÍNH MỪNG – KINH SÁNG DANH
Tất cả được mời gọi xây dựng Giáo Hội của Chúa (Chúa nhật XXVII Mùa Thường Niên – Năm A)
CHÚA THỎA MÃN MỌI KHÁT VỌNG (CHÚA NHẬT III MÙA CHAY – NĂM A)

* Để nghe trên Youtube:

https://youtu.be/MXcbezQ6mfI

- Trang Chủ của kênh:

https://youtube.com/@loichualaanhsang

- Quý vị có nhu cầu nhận bài suy niệm hàng tuần qua email, xin liên lạc trực tiếp với: 

Lm Giuse Vũ Thái Hòa: vuthaihoa2@gmail.com

 

 

Chúa nhật III Mùa Chay – Năm A

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (4,5-42)

Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.

Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Sa-maria).

Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống".

Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"

Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa". Chúa Giêsu bảo: "Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây". Người đàn bà đáp: "Tôi không có chồng". Chúa Giêsu nói tiếp: "Bà nói "tôi không có chồng" là phải, vì bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng đó".

Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem".

Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".

Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây".

Vừa lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: "Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao Thầy nói truyện với người đó?" Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: "Xin mời Thầy ăn". Nhưng Ngài đáp: "Thầy có của ăn mà các con không biết". Môn đệ hỏi nhau: "Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?" Chúa Giêsu nói: "Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ".

Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: "Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm". Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế".

 

***

Bài chia sẻ Tin Mừng của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

 

Chúa thỏa mãn mọi khát vọng

Mỗi người chúng ta ít nhiều đều đã có kinh nghiệm về cơn khát. Khi khát ta cảm thấy khó chịu, khổ sở, nhưng sau khi được giải khát ta cũng sẽ lại khát. Ngoài khát nước, đói ăn, chúng ta còn khao khát tình yêu, quyền hành, giầu có, v.v... Khi đạt được điều gì rồi, ta lại muốn điều khác nữa. Chính vì thế, hạnh phúc ở đời này luôn chỉ là tạm thời.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, người phụ nữ Sa-ma-ri khát, không chỉ khát nước, mà khát cả tình yêu: chị đã có năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị cũng không phải là chồng chị. Thế mà tại sao thánh sử Gio-an lại nói về đời sống vợ chồng riêng tư của chị trong bài diễn văn về nước hằng sống như thế? Dường như hai vấn đề không có liên quan gì với nhau cả.

Nếu nghiên cứu sâu hơn một chút về Kinh Thánh, chúng ta sẽ biết rằng người Do-thái thời đó chỉ cho phép cưới tối đa là ba lần, nên chuyện có năm đời chồng là không bao giờ có. Thật ra, năm người “chồng” ở đây ám chỉ năm vị thần ngoại được đưa vào vùng Sa-ma-ri từ thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên.

Theo lịch sử, Sa-ma-ri là thủ đô của vương quyền phương Bắc bị rơi vào tay của người Át-sua vào năm 721 trước Công Nguyên. Từ việc trộn lẫn giữa dân Mê-xô-pô-ta-mia và người Do-thái ở tại chỗ nảy sinh ra dân Sa-ma-ri, tạp chủng và tôn thờ các ngẫu tượng. Giữa người Do-thái và người Sa-ma-ri, mối giao lưu ngày càng tồi tệ, nhất là sau thời lưu đầy. Vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, người Sa-ma-ri xây một đền thờ trên núi Ga-ri-dim, đối nghịch với đền thờ Giê-ru-sa-lem. Từ lúc đó có sự ly giáo. Vào thời Ðức Giêsu, người Do-thái khinh bỉ người Sa-ma-ri, coi họ là một dân hỗn tạp về chủng tộc, rối đạo và ly giáo, là những người không thể giao du được. Chính vì thế, người phụ nữ Sa-ma-ri ngạc nhiên khi Chúa Giêsu ngỏ lời với chị, cũng như các môn đệ ngạc nhiên khi thấy Thầy mình nói chuyện với một phụ nữ Sa-ma-ri.

Khi Chúa Giêsu trả lời với chị ta: “Chị nói: 'Tôi không có chồng' là phải, vì chị đã có năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” Người muốn nói với chị ấy rằng chị và người Sa-ma-ri đã thờ năm thần ngoại trên núi Ga-ri-dim, và vị thần mà họ đang tôn thờ không là phải thần đích thật. Chúng ta cũng đừng quên rằng trong Kinh Thánh, ngôn từ ngoại tình thường được dùng để diễn tả sự bất trung đối với Chúa.

Câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri cũng là câu chuyện của những người đang vất vả tìm kiếm Chúa. Họ nhận ra chính họ qua người phụ nữ này. Khi chúng ta nghe chị ấy nói: “Tôi không có chồng”, ngụ ý: “Tôi không có Chúa”, chúng ta nghe những lời than vãn, tiếng kêu la của biết bao người: “Chúa ở đâu? Tôi cảm thấy cô đơn và khốn khổ. Không ai làm cho đời sống tôi có ý nghĩa cả!

Như dân Do-thái xưa, có những lúc chúng ta thiếu đức tin và đổ lỗi, buộc tội Chúa về những điều bất hạnh: “Có Ðức Chúa ở giữa chúng ta hay không?”, như chúng ta nghe trong bài đọc I. Thật ra Chúa luôn ở với họ trong sa mạc, nhưng họ không tin và không nhận ra.

Chúa Giêsu ngồi bên bờ giếng, nhưng phụ nữ Sa-ma-ri không nhận ra Người. Người bảo chị ấy: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” Mạch nước vọt lên là gì thế? Ðó là Thiên Chúa, Thiên Chúa đích thật. Nếu ai gặp Chúa hoặc Ðức Kitô, người đó sẽ có được nước ban sự sống. Nhưng làm thế nào để gặp Chúa trong sự thật? Chúng ta vẫn thường đến nhà thờ cầu nguyện, dâng thánh lễ, v.v... nhưng có thể chúng ta không gặp được Chúa, là do chúng ta tham dự thánh lễ chỉ vì thói quen hay vì luật buộc.

Thiên Chúa là tình yêu, và chỉ những ai yêu thương mới có thể gặp Chúa trong sự thật. Thánh Gio-an đã nói: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Chúa là tình yêu.” (2 Ga 4,7b-8). Ðộng từ “biết” ở đây có nghĩa là “gặp”. Nơi mà chúng ta có thể gặp Chúa dễ dàng, đó là trong tâm hồn chúng ta. Nếu Người ở trong tâm hồn chúng ta, chúng ta cũng có thể gặp Người trong thánh lễ và trong các bí tích khác, trong các biến cố của cuộc đời và trong anh chị em của chúng ta.

Mùa Chay kéo dài 40 ngày là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta nhận ra những cơn khát và đói đang ám ảnh và điều khiển chúng ta làm chúng ta mất tự do. Mùa Chay cũng là dịp để nhận ra rằng chỉ có Chúa mới thỏa mãn những khát vọng sâu thẳm nhất của con người.

Tác giả: Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!