Vào đề
Trong giáo lý Kitô giáo,
có một điểm xem ra tạo thách đố và gây mặc cảm, đó là các mầu nhiệm. Phải chăng
đây là những điều Thiên Chúa gởi tới chúng ta để đánh đố trí óc, thách thức khả
năng suy nghĩ của người phàm ? (Câu chuyện thánh Augustinô suy tư về Chúa Ba
Ngôi bên bờ biển và thấy một thiên thần nhỏ lấy vỏ ngao múc nước biển đổ vào
một hố cát bé tí). Đàng khác, với những điều quan trọng vào bậc nhất nhưng lại
khó hiểu như vầy, phải chăng đức tin Kitô hữu là một niềm tin mù quáng, cưỡng
bức ? (Nhiều linh mục hay giáo lý viên, khi bí bách không giải thích nổi một
điểm giáo lý nào đó thì buông câu: “Đấy là mầu nhiệm!”)
Vậy Thiên Chúa mạc khải các mầu nhiệm cho ta biết là nhắm
mục đích chi và các mầu nhiệm mang bản chất gì? Tại sao có thể nói Thiên Chúa
mạc khải các mầu nhiệm là để bày tỏ những nỗi lòng của Người? Thiết tưởng trước
hết ta nên đặt vấn đề : Thế nào là hiểu biết ? Hiểu biết có mấy cách ? Có mấy loại đối tượng (sự thật) và
mấy lãnh vực của sự hiểu biết ? Cái gì là bằng
chứng cho từng loại sự thật này?
1- Những cách thức con người hiểu biết
Thiên Chúa đã dựng nên mỗi người chúng ta và đặt vào giữa
3 thế giới: thế giới muôn loài, thế giới con người và thế giới Thiên Chúa. Thế
giới muôn loài là thế giới vật chất, thế giới con người (xét như hữu thể có hồn
thiêng) là thế giới tâm linh và thế giới Thiên Chúa là thế giới thần linh.
Để hiểu biết hầu có thể liên hệ với 3 thế giới này, Thiên
Chúa cho chúng ta 3 khả năng:
a- Trước hết, chúng ta có ngũ quan (tai nghe, mắt
nhìn, mũi ngửi, tay sờ, lưỡi nếm) hoặc tạo ra các dụng cụ, máy móc để tăng thêm
khả năng của ngũ quan mà khám phá thế giới vật chất, thế giới hữu hình cho sâu
hơn, rõ hơn nữa. Lãnh vực hiểu biết này thường gọi là lãnh vực của khoa học,
bằng chứng cho kiểu hiểu biết này mang tên vật chứng, và kiểu cách hành
động ở đây là mô tả.
b- Thứ đến, với bộ óc Chúa ban, chúng ta có khả năng suy
luận để biết được chân lý, thực tại mà có khi chẳng cần ngũ quan. Suy luận
là tìm mối liên hệ giữa nhiều sự vật, nhiều hiện tượng để có một cái nhìn tổng
thể rồi rút ra một kết luận hợp lý, dựa trên một vài nguyên tắc cơ bản, chẳng
hạn nguyên tắc nhân quả (có quả tức đã phải có
nhân, có tác phẩm ắt đã phải có tác giả…). Ví dụ thấy đồng hồ biết có thợ làm
đồng hồ; thấy tạo vật tốt đẹp, vũ trụ hài hòa biết có Tạo hóa tài ba; thấy
trong trời đất và trong lương tâm có những quy luật điều khiển thì biết có Đấng
lập luật; thấy nơi con người có sự hiểu biết bao la, vượt thời gian không gian,
có trái tim vĩ đại, yêu tha nhân đến độ hy sinh chính mình, thì biết có hồn
thiêng, lý luận ra rằng có hồn thiêng. Lãnh vực hiểu biết này thường gọi là lãnh
vực của triết học, bằng chứng cho kiểu hiểu biết này mang tên lý
chứng (luận chứng), và kiểu cách hành động ở đây là giải thích.
c- Thứ ba, để đi vào thế giới
tâm linh và thế giới thần linh, để hiểu biết các thực tại tinh thần, các hữu
thể tinh thần, không thể dùng hai khả năng và các phương tiện nói trên. Tôi chỉ
biết người khác nghĩ gì, cảm gì khi chính đương sự tỏ bày cho tôi biết. Vì
những tư tưởng, tình cảm nằm trong linh hồn (hình ảnh hóa là trong trái tim,
trong óc não) phải được chủ thể đích thân bày tỏ, còn đối tượng lắng nghe
chỉ có việc tin vào. Việc bày tỏ tâm linh này đòi hai điều kiện: chủ thể
cảm nghĩ nơi mình cách chân thật và yêu mến đối tượng cách chân thành. Thông
thường, đó là bạn bè hàn huyên tâm sự với nhau. Sâu xa hơn, đó là vợ chồng bày
tỏ ý tình cho nhau. Cao hơn nữa, đó là tín hữu cảm nghiệm về Thiên Chúa rồi nói
lại cho người khác hay. Lãnh
vực hiểu biết này thường gọi là lãnh vực của tâm linh và trong Kitô giáo là lãnh
vực của thần học, bằng chứng cho kiểu hiểu biết này mang tên nhân
chứng,
và kiểu cách hành động ở đây là tỏ bày (mạc khải)-tin tưởng.
Nhân chứng kinh nghiệm tâm linh càng
đầy thuyết phục khi chứng nhân nhờ đó mà trở nên sống đạo đức và nhất là vì đó
mà chấp nhận chết anh dũng. Trong Kitô giáo, đấy là cảm nghiệm thần bí (hay
thần nghiệm, tức giao tiếp với Thiên Chúa trong tâm hồn) mà ta thấy nơi những
nhân vật kiệt xuất của Cựu Ước, của Tân Ước, nơi nhiều thánh nhân đặc biệt của Giáo
Hội. Họ được gọi là những chứng nhân của Thiên Chúa.
Nhưng chứng nhân số một chính là
Đấng mà Tin mừng Gioan 1,18 đã nói: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ;
nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính
Người đã tỏ cho chúng ta biết”. Chúa Giêsu cũng đích thân xác nhận như thế
với các Tông đồ trong Diễn từ giã biệt: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi
Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Rồi để làm chứng cho lời
mình nói là chân thật, Chúa đã sống rao giảng và gieo rắc tình thương, đoạn chịu
chết trong đau khổ ô nhục. Và cũng để làm chứng cho lời mình nói là hữu hiệu, Người
đã sống lại trong vinh quang. Mà sở dĩ Chúa Giêsu đã làm như thế cho các Tông
đồ và cho chúng ta, đó là vì “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì
tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga
15,15). Đó cũng là vì Chúa Kitô coi H. Thánh và mỗi tín hữu như hôn thê của
mình, đáng được Người thổ lộ tâm can.
2- Những nỗi lòng Thiên Chúa bày tỏ
Vậy Chúa Giêsu đã mạc khải cái gì từ
Thiên Chúa cho chúng ta? Thưa đó là những điều mà giáo lý gọi là các “mầu
nhiệm”. Như thế, theo mấy điểm nói trên kia, có thể cho rằng các mầu nhiệm
chính là những nỗi lòng của Thiên Chúa, những tâm sự về gia đình Thiên Chúa, về
hoạt động của Thiên Chúa mà Ngôi Con bày tỏ với loài người, như giữa bạn bè và
vợ chồng với nhau. Tất cả chỉ tóm gọn trong 2 chữ TÌNH YÊU.
Trên hết và trước hết là mầu nhiệm Ba
ngôi, mạc khải qua biến cố Chúa chịu phép rửa, cuộc Hiển dung trên núi, lời tâm
sự trong bữa Tiệc ly, mệnh lệnh làm phép rửa nhân danh Cha, Con và Thánh Thần.
Thiên Chúa chỉ có một (một bản thể), nhưng vì là tình yêu nên thành 3 ngôi vị. Nơi
Người có 3 ngôi vị nhưng vì là Tình yêu nên chỉ làm thành một bản thể. Bởi lẽ
tình yêu vừa đòi có nhiều vừa đòi nên một. Nơi loài người đó là ước mơ, nơi
Thiên Chúa đó là hiện thực.
Tình yêu ấy không khép kín trong 3
Ngôi Thiên Chúa, nhưng tràn ra qua việc sáng tạo trời và đất (mầu nhiệm Sáng
tạo). Trời thì có các thiên thần, đất thì có loài người và vạn vật. Tình yêu Thiên
Chúa đối với thụ tạo còn biểu lộ cách đặc biệt qua việc ban cho 2 loài thượng
đẳng hình ảnh của Người là có lý trí và ý chí, nhất là có tự do, khả năng chọn
hay chống Người, vì coi họ như con cái, đúng như tình Cha đòi hỏi.
Sau
cuộc sa ngã trong vườn địa đàng, Thiên Chúa không tiêu diệt tự do của phàm nhân
để mình được yên thân. Tình yêu của Người vẫn tiếp tục bằng việc sai Thánh Tử
xuống trần làm người, thực hiện cuộc hôn nhân giữa trời với đất (mầu nhiệm Nhập
thể), để dễ dàng nói cho nhân loại biết Thiên Chúa giàu lòng thương xót, không muốn tạo vật của Người bơ vơ trên
cõi thế, khốn đốn vì tự do và đi vào cõi hư vô tuyệt diệt. Rồi vừa với thần tính, vừa với nhân tính, Thánh Tử đền
thay tội lỗi nhân loài cách hữu hiệu, tạo sự hòa giải, khôi phục tình yêu, gieo
mầm sống lại (mầu nhiệm Cứu chuộc), đồng thời cho thấy tột đỉnh của tình yêu là
thí mạng mình.
Chưa hết, tình yêu Thiên Chúa còn mong
muốn tạo vật phàm nhân trở nên giống mình, kết hợp với mình, và đó là ý nghĩa
của mầu nhiệm Thánh hóa. Thần Khí được sai đến, tràn ngập trần gian, để làm cho
nhân loại nên thánh (nghĩa là yêu như Thiên Chúa), liên kết họ lại thành một
thân thể vĩ đại mang tên Nhiệm Thể với Chúa Kitô phục sinh là đầu và mọi tín
hữu là những chi thể (đúng ra là tế bào); thành một cộng đồng tình yêu mệnh
danh Hội Thánh: những gì thánh thì hội
lại: tâm là Thiên Chúa Đấng Thánh, bao quanh là thần thánh (thiên thần và thánh
nhân), rồi dân thánh (Kitô hữu) với những gì thuộc về Thiên Chúa (thời gian
thánh, không gian thánh, đồ vật thánh), ngoài cùng là cả thế giới cần được
thánh hóa (loài người lẫn vạn vật), để cuối cùng, Thiên Chúa là “tất cả trong
mọi sự”, một sự hợp nhất vĩ đại, như tình yêu đòi hỏi.
Công cụ của việc thánh hóa, kết hợp
đó chính là Mình Máu Chúa Kitô, dấu chỉ sự tự hiến đầy tình yêu của Người cho
chúng ta và sự hiện diện đầy âu yếm của Người bên chúng ta (mầu nhiệm Thánh
Thể). Mình Máu ấy duy trì
nơi ta sự sống thần linh, là thức ăn nuôi sống
lẫn liên kết các tế bào trong Nhiệm Thể với Đầu và với nhau, đồng thời xây đắp
cho Nhiệm Thể đạt tầm vóc Chúa Kitô toàn thể (Christ total). Đó chẳng
phải là bản chất của tình yêu hay sao?
Những mầu nhiệm khác như Thiên đàng,
Hỏa ngục cũng không ra ngoài ý nghĩa tình yêu. Thiên đàng là nơi các phúc nhân
hưởng toàn phúc không phải vì thỏa mãn được mọi ham muốn (như Hồi giáo khẳng
định), nhưng vì có thể yêu thương bất tận và trọn vẹn. Hỏa ngục là nơi các đọa
nhân đau khổ không phải vì bị bọn ngạ quỷ tiểu yêu tra tấn ngày đêm (như Phật
giáo thuyết giảng), nhưng vì không thể yêu thương do đã quyết sống ích kỷ khi
còn ở gian trần. Bởi lẽ chỉ có tình yêu và yêu như Thiên Chúa mới làm cho chúng
ta hạnh phúc thật sự.
Dĩ nhiên các mầu nhiệm của Thiên
Chúa được Ngôi Con mạc khải thì thâm sâu, khó hiểu. Chuyện đó chẳng có gì lạ.
Ngay cả những điều thuộc thế giới, vũ trụ hữu hình thì cũng đã thâm sâu rồi. Khoa
học tới nay vẫn chưa khám phá ra hết mọi sự nằm trong cái vô cùng lớn, cái vô
cùng nhỏ và cái vô cùng phức hợp, nên đã gọi chúng là các bí nhiệm.
Những gì ở trong tâm hồn con người càng thâm sâu hơn: vợ chồng ăn đời ở kiếp chưa
chắc đã hiểu dạ nhau; bạn bè lâu năm tri kỷ chưa hẳn đã rõ lòng nhau; tâm hồn
các vĩ nhân, thánh nhân lại càng thâm sâu hơn nữa, vì thế triết học hiện sinh
gọi tâm hồn mỗi người là một huyền nhiệm. Huống chi là những điều thuộc
về tâm lòng Thiên Chúa, thế giới Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không mạc
khải các mầu nhiệm để thách thức óc não, đánh đố suy nghĩ của nhân loài, hầu cho
ra vẻ ta đây siêu việt. Đừng nghĩ thế mà tội nghiệp cho Người. Vung chữ “mầu
nhiệm” để thôi suy tư, tìm hiểu chính là chỉ chú ý đến phương
diện tri thức của điều mạc khải, đang khi bản chất của nó là tình yêu. Và chỉ
khi sống một mầu nhiệm nào đó thì ta mới ngày càng hiểu nó hơn thôi. “Mầu
nhiệm chẳng phải là một bức tường cho trí tuệ bể nát khi đụng vào, mà là một
đại dương trong đó trí tuệ bị mất hút luôn” (G. Thibon). Một đại dương tình
yêu bao la, một nỗi lòng thiết tha sâu thẳm.
Kết luận
Qua những mầu nhiệm mà đã Chúa Giêsu mạc
khải cho chúng ta để rồi Hội Thánh nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm, tất cả đều
nói lên nỗi lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại. Nỗi lòng đó biểu
lộ ra qua chuyện Thiên Chúa làm cái việc mà ta có thể gọi là “tổ chức đám cưới
cho con trai mình”. Hiển nhiên quý tử ấy là Ngôi Lời nhập thể. Người nhập thế,
xuống trần để cưới một hôn thê Người yêu say đắm và Cha Người cũng thương rất
mực: nhân loại. Hình ảnh đám cưới này như một sợi chỉ bạc chạy suốt Kinh Thánh:
Hs 1-3; Is 54,4-8; 61,10; 62,4-5; Gr 2,2;31,3; Ed 16; Tv 45,7-8; toàn bộ Diễm
ca; Mt 9,15; 25,1-13; Mc 2,9; Ga 3,29; Ep 5,25; 2Cr 19,29; 21,2-9; 22,17; Kh
20,9; 21,2-9… Vâng, từ đầu đến cuối Mạc khải, các tương quan giữa Thiên Chúa
với nhân loại -như
mọi mầu nhiệm cho thấy-
là một “giao ước”, “hôn lễ”. Đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, một love
story vĩ đại. Điều ấy sẽ thay đổi gì nơi “tôn giáo” của tôi nếu thay vì coi nó như
những chân lý phải tin (đôi khi miễn cưỡng mà tin) hay những huấn lệnh phải giữ
(đôi khi miễn cưỡng mà giữ), tôi đi đến chỗ thật sự coi nó như một “chuyện
tình”?
Lm Phêrô Phan Văn Lợi, TGP Huế, 10-06-2023
“Chứng nhân”” cũng có thể chỉ người chứng kiến một sự việc và rồi kể
lại (trong một vụ án chẳng hạn), nhưng chứng nhân mắt thấy tai nghe này liên hệ
đến vấn đề vật chứng hơn là đến vấn đề tâm linh, kinh nghiệm tâm linh.