Hai biến cố lồng vào nhau hôm nay làm nên một câu chuyện thật
sống động, được Mác-cô tường thuật theo lời kể của Phêrô, con người cụ thể,
quanh sát viên chính xác. Khung cảnh, các nhân vật, các hành vi, tất cả xảy ra
như trong một cuốn phim.
1. Từ niềm tin ma thuật đến đức tin chân chính
Mở đầu với việc ông Gia-ia “khẩn khoản nài xin”, trong khi Đức
Giê-su chẳng nói gì, chỉ “ra đi với ông”, câu chuyện chuyển ngay sang người đàn
bà bị băng huyết. Mác-cô nhấn mạnh đến tình trạng tuyệt vọng của bà: “bao
phen khổ sở”… “chạy thuốc đã nhiều”… “tán gia bại sản”… “bệnh vẫn không thuyên
giảm, lại còn nặng thêm”… Kiểu nhấn mạnh ấy muốn nói với ta rằng khi
mọi phương sách loài người đã cạn, Đức Giê-su sẽ là chỗ nương tựa cuối cùng.
Trong não trạng Do-thái đương thời, người phụ nữ ấy bị xem như
“ô uế” chiếu luật Mô-sê (x. Lv 15,25), thậm chí còn làm cho kẻ khác ra ô uế chỉ
bằng việc đụng chạm. Bà khốn khổ chẳng những vì cơn bệnh hành hạ, mà còn vì bị
xã hội và tôn giáo loại ra khỏi cộng đoàn. Hãy cố tưởng tượng nỗi ô nhục và e
sợ của kẻ bất hạnh này: sờ vào Đức Giê-su là bà làm một việc cấm kỵ, rồi biết
đâu Người lại phản đối sự đụng chạm gây ô uế đó! Nhưng ước vọng sống, ước vọng
được giải thoát, được hội nhập lại vào xã hội đã khiến bà phải liều. Thiên hạ
đã chẳng đồn ngôn sứ Giê-su là Đấng “đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”,
Đấng đón tiếp những kẻ nghèo hèn nhất đó sao? Họ đã chẳng nói không một nỗi khổ
nào, dẫu kín ẩn nhất, dẫu xấu hổ nhất, lại bị Người xua đuổi; không một Lề luật
nào đứng vững trước Người khi có chuyện “giải cứu” ai đó sao?
Thế là bà nhất định sờ vào Người, để thần lực của Người chuyển
sang thân thể của bà đang bệnh hoạn yếu nhược. Nhưng có lẽ sợ bất kính, bà đã
chỉ chạm đến gấu áo của Người, với niềm tin tưởng vô biên. Việc lạ lùng đã xảy
tới: bà được khỏi. Nhưng một chuyện cũng lạ lùng không kém: giữa bao kẻ chen
lấn mình, Đức Giê-su đã như trực giác một đụng chạm đặc biệt.
Không muốn dừng lại ở tính vô danh của đám đông, Người tìm
một tiếp xúc cá nhân. Người cũng muốn bà băng huyết vượt quá niềm tin tưởng
nhuốm màu ma thuật mê tín của bà (“tôi mà sờ vào… là sẽ được cứu…”), để
đi vào một đức tin chân thực, là thừa nhận bản thân Người. Chúng ta nhận thấy
Đức Giê-su quả là một nhà giáo dục: Người lưu ý đến niềm tin tưởng bất toàn và
ngây ngô, nhưng cũng tìm cách đưa tới một đức tin trưởng thành, có lý do, có
động lực. Người yêu chúng ta đúng như chúng ta đang là, song vẫn muốn đưa chúng
ta lên cao mãi.
Kinh hãi, người phụ nữ phủ phục, nói hết sự thực và chờ đợi sự
trừng phạt. Nhưng Đấng Thánh của Thiên Chúa lại thốt lên một câu bất ngờ và vô
cùng khiêm tốn: “Lòng tin con đã cứu chữa con. Con hãy về bằng an và
khỏi hẳn bệnh”. “Khỏi bệnh”! “Cứu chữa”! Trong cái nhìn của Ki-tô hữu sau
Phục sinh, các phép lạ của ĐGS đều là lời loan báo “ơn cứu rỗi nhờ đức tin” mà
chúng ta sẽ hưởng được nếu thừa nhận Người. Vâng, đối với ĐGS, điều chủ yếu
không phải là “chuyện lạ lùng”, song là ơn cứu rỗi.
2. Từ niềm tin vào sự cứu chữa đến niềm tin vào sự hồi sinh
Biến cố thứ hai cũng nhấn mạnh đến niềm tin. Đó là nội
dung câu đầu tiên Đức Giê-su nói với ông trưởng hội đường khi thân nhân xin ông
thôi làm phiền Người vì con gái ông đã chết. Chính “đức tin” mới đáng kể đối
với Đức Giê-su. Mác-cô kể lại với chúng ta hai phép lạ lồng vào nhau để cho
thấy một đức tin tăng dần: tin rằng Đức Giê-su có thể chữa lành một người bệnh,
tin rằng Đức Giê-su có thể hồi sinh một kẻ chết.
Vì đối với kẻ đương thời Đức Giê-su, xin ơn hồi sinh từ Người là
điều khó tưởng tượng. Chữa lành một bệnh nhân thì còn có thể. Hồi sinh một kẻ
chết chỉ tổ quấy rầy Thầy. Điều này nêu bật sự nghịch lý, ngược đời của đức
tin.
Một lần nữa, Đức Giê-su không muốn làm điều giật gân. Mỗi khi có
thể, Người thích thực hiện các phép lạ trong kín đáo, để qua vài chứng nhân có
thẩm quyền, Người nêu bật ý nghĩa đích thực của phép lạ. Hôm nay, Người chỉ
mang theo ba chứng nhân đặc tuyển, vốn cũng sẽ chứng kiến cuộc biến hình (x. Mc
9,2) và cơn hấp hối của Người (x. Mc 14,33). Đức Giê-su chẳng muốn quyền lực
của mình là một quyền lực ma thuật, phá bỏ vĩnh viễn luật tự nhiên: Người sẽ
đích thân cảm nghiệm cách bi thảm về cơn hấp hối và cái chết… vốn đã động tới
cô con gái của ông Gia-ia hôm nay! Sự cứu rỗi duy nhất và chung quyết (mà phép
lạ này chỉ là hình ảnh tiên báo), đó là cuộc Vượt qua cuối cùng, việc đi vào Sự
Sống vĩnh cửu.
Và Đức Giê-su đã làm tất cả đám đông kinh ngạc, thậm chí chế
giễu, qua câu nói: “Đứa bé có chết đâu! Nó ngủ đấy!”. Rồi đây Người
cũng sẽ bảo thế trên đường đến mộ La-da-rô (x. Ga 11,11). Và để lôgích với lời
mình vừa phán, Đức Giê-su đã cầm lấy tay cô bé và bảo: “Này bé, Thầy
truyền cho con, trỗi dậy đi”.
Câu nói trước hết được trích dẫn bằng ngôn ngữ A-ram, tiếng mẹ
đẻ của Đức Giê-su (chi tiết cho thấy một chứng nhân tận mắt), và Mác-cô đã dịch
ngay bằng tiếng Hy-lạp. Thật ra, hai từ A-ram ấy được dịch gọn hơn nhiều: “Này
bé, đứng dậy!” Nhưng tác giả cảm thấy phải nói dài, và ông đã sử dụng một từ
chủ chốt nơi cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi: “Trỗi dậy đi” (Hy ngữ là “égeiré”).
Đây là từ được dùng để nói việc Đức Giê-su sống lại. Nó có một hương vị phục
sinh, đối nghịch với từ “ngủ” mà Đức Giê-su đã sử dụng trên kia để nói về cái
chết. Vâng, đối với Đức Giê-su, cái chết chẳng còn hoàn toàn là cái chết, mà
chỉ là một giấc ngủ trước khi thức dậy. Một thánh ca rất cổ của các Ki-tô hữu
đầu tiên, được hát trong lễ nghi rửa tội, đã viết thế này: “Tỉnh giấc
đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ
chiếu sáng ngươi” (Ep 5,14).
Nếu lưu ý rằng tên “Gia-ia” có nghĩa là “người chiếu sáng”,
“người đánh thức” và phép rửa đã từng được gọi là “sự tái sinh” và “ơn soi
sáng” (x. Giáo lý HTCG số 1215-1216), thì có thể cho rằng phép lạ đang nói đây
chính là biểu tượng phép rửa.
Phải chăng chúng ta thật sự tin rằng mình đã nhận cùng ân huệ
như cô bé? Nhờ phép rửa, chúng ta đã đi từ sự chết sang sự sống, sự sống vĩnh
cửu, một sự sống vốn đã bắt đầu rồi. Phải chăng chúng ta luôn nhớ rằng mình là
một kẻ không ngừng “đứng dậy”, “thức dậy”, “trỗi dậy”, để chờ ngày phục sinh
mãi mãi, luôn ý thức những hoàn cảnh chết người mà đức tin và phép rửa đã cứu
chúng ta ra khỏi?
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
MC 5,21-43
21Khi ấy, Đức Giê-su xuống thuyền, sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. 22Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, 23và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. 24 Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.
25 Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, 26 bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, đến tán gia bại sản, mà bệnh vẫn không thuyên giảm, lại còn thêm nặng là khác. 27Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo choàng của Người. 28Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo choàng Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. 29 Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. 30 Ngay lúc đó, Đức Giê-su nhận thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?”. 31Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ‘Ai đã sờ vào tôi?’”. 32Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. 33 Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. 34Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
35Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?”. 36Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. 37Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an. 38Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy cảnh ồn ào và người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. 39Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại ồn ào và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” 40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, rồi đưa cha mẹ đứa trẻ và những kẻ theo Người, cùng đi vào nơi nó đang nằm. 41Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, có nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” 42 Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta sửng sốt kinh ngạc. 43 Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.