Trong thần học và triết học, chúng ta thường
nghe nói đến nhiều bộ ba (bộ tam) : Thiên Chúa có Ba Ngôi (Cha, Con, Thánh Thần)
; Người có ba thuộc tính trổi vượt (chân, thiện, mỹ) ; Người lập một chương
trình cho tạo vật theo ba giai đoạn (sáng tạo, cứu chuộc, thánh hóa) ; thời
gian có ba chiều kích (quá khứ, hiện tại, tương lai). Nơi con người thì có ba
thái độ đối với Thiên Chúa xét như tạo vật (ngợi khen, cảm tạ, cầu xin) ; ba
nhân đức đối thần xét như nghĩa tử (tin, cậy, mến) ; ba chức năng xét như tín hữu
(tư tế, ngôn sứ, vương đế) ; ba khả năng xét như hữu thể có tinh thần (trí năng,
chí năng, cảm năng) ; ba bản năng xét như hữu thể có hồn xác (quyền lực, sinh tồn,
truyền sinh) ; ba kẻ thù vây lấy cuộc sống (ma quỷ, thế gian, xác thịt) ; ba lời
khuyên Tin Mừng (khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục)… Các bộ ba này liên hệ với nhau như thế nào ?
Chúng ta hãy cùng thử tìm hiểu.
1- Về bản
tính, Thiên Chúa có 3 ngôi vị : Cha, Con và Thánh Thần.
Thần học cho chúng ta biết tự đời đời, Thiên
Chúa đã có một tư tưởng về chính mình, sinh ra tư tưởng đó trong mình, và tư tưởng
này trở thành một ngôi vị (tức là một hữu thể có hiểu biết, ước muốn và tự do)
mang danh Ngôi Lời (hay Đức Ngôn, vì phản ảnh hoàn toàn, diễn tả trọn vẹn bản
tính Thiên Chúa, x. Ga 1,1-14,). Ngôi Lời được gọi là Ngôi Con và Đấng sinh
thành được gọi là Ngôi Cha. Tiếng chuyên môn gọi là “nhiệm sinh” (sinh ra cách
mầu nhiệm). Vì thế Hai Ngôi yêu nhau, yêu nhau trong một tình yêu duy nhất. Tình
yêu duy nhất đó giữa Ngôi Cha và Ngôi Con cũng trở thành một ngôi vị chứ không
đơn thuần là một tình cảm suông như nơi con người. Tiếng chuyên môn gọi là “nhiệm
xuất” (xuất ra cách mầu nhiệm). Ngôi vị này mang danh Thánh Thần, Ngôi Thánh Thần
hay Ngôi Ba, mối dây liên kết Cha với Con. Cả Ba Ngôi đồng bản tính (là Thiên
Chúa như nhau) và đồng bản thể (chỉ làm một Thiên Chúa).
Ngôi Nhất
được gọi là Cha không những vì Người sinh ra Ngôi Hai mà còn vì Người là nguồn
gốc của tất cả những gì hiện hữu trong thế giới vô hình lẫn thế giới hữu hình. Người
là “nguồn gốc mọi phụ tính (chức vụ làm cha) trên trời dưới đất” (Ep 3,15)”.
Người xứng đáng mang danh hiệu “Cha” hơn cả. Ngôi Hai được gọi là Con không
những vì do Ngôi Cha sinh ra, mà còn vì Người quy tụ trong mình tất cả những ai
được gọi là con cái, nghĩa tử Thiên Chúa (toàn thể nhân loại), để Người (Đích
tử) trở thành “trưởng tử giữa một đàn em đông đảo” (Rm 8,29; x. Cl 1,15). Ngôi
Ba không những là tình yêu liên kết Ngôi Cha và Ngôi Con, mà còn liên kết những
nghĩa tử ở trong Đích Tử (xem mục Chân, Thiện, Mỹ bên dưới). Người thường được
mô tả dưới dáng vẻ và tâm tình của một bà mẹ (x. Ca tiếp liên lễ Hiện Xuống).
Nhưng chớ nên gọi đó là Chúa Mẹ, vì sẽ rơi vào nguy cơ quan niệm các mối quan
hệ trong Ba Ngôi như trong một gia đình của phàm nhân có hồn xác. Vả lại mối
quan hệ giữa Người với Chúa Cha và Chúa Con không cho phép ta gọi Người như
thế.
2- Về thuộc tính, Thiên Chúa là Chân, Thiện,
Mỹ tuyệt đối.
Người đồng thời là nguồn chân, thiện, mỹ của
mọi thụ tạo. Chân là thật, thiện là tốt, mỹ là đẹp. Nhưng đẹp nghĩa là gì ? Cách
tổng quát, đẹp là sự hài hòa giữa các thành phần khác nhau làm nên một thực thể
nào đó. Ngôi nhà đẹp là sự hài hòa giữa các phần từ mái đến tường, từ cổng đến
cửa, từ sân ngoài đến nội thất. Bức tranh đẹp là sự hài hòa giữa các màu sắc và
đường nét. Bản nhạc đẹp là sự hài hòa giữa các âm thanh và nhịp điệu. Vũ khúc đẹp
là sự hài hòa giữa các cử điệu của thân thể và sự phối hợp giữa các vũ công.
Khuôn mặt đẹp là sự hài hòa cân đối giữa tai, mắt, mũi, miệng… Ngoài vẻ đẹp thể
lý ấy, còn có vẻ đẹp tinh thần. Đó là sự hài hòa của những khuynh hướng đủ loại,
có khi xung khắc nhau, nơi bản thân, trong tâm hồn chúng ta : các bản năng, các
nhân đức. Sự hài hòa này tạo ra tâm hồn đẹp.
Nhưng còn có cái đẹp của tập thể : gia đình, cộng
đoàn. Gia đình đẹp là sự hòa hợp, đoàn kết, yêu thương giữa vợ chồng, cha mẹ,
con cái, vốn khác nhau về thể chất, tình cảm, khuynh hướng và về nhiều mặt khác
nữa. Cái đẹp nơi một cộng đoàn như dòng tu, giáo xứ thể hiện ở chỗ dù có hàng
chục, hàng trăm, hàng ngàn người, bá nhân bá tánh, vạn ý vạn lời, nhưng vẫn
luôn hòa hợp, đồng lòng, đoàn kết, hiệp nhất, vì cuộc sống chung cho ơn gọi hay
cho đức tin.
Vẻ đẹp của tập thể đông đảo này, sự hòa hợp
giữa mọi tâm tính khác nhau này mang một cái tên rất tuyệt vời là “tình yêu”.
Tình yêu chính là cái đẹp thể hiện ở mức độ cao nhất, tình yêu là mức độ cao nhất
của cái đẹp ! Những ai chết vì tình yêu (cho Thiên Chúa, cho tổ quốc, cho tha
nhân, cho khoa học, cho một lý tưởng cao quý…) được gọi là có cái chết đẹp.
Trở lại với Thiên Chúa. Người là Chân, Thiện,
Mỹ tuyệt đối, và mọi thuộc tính, mọi hoạt động lẫn trọn bản tính đều thuộc về
Người. Nhưng vì Thiên Chúa có Ba Ngôi, nên mỗi ngôi như có những thuộc tính và
hoạt động biệt riêng, nổi bật, hoặc là đối tượng riêng cho một thái độ nào đó của
con người. Thần học gọi đấy là sự “biệt ứng” (appropriation).
Chúa Cha là Sự Thiện, Sự Thiện Hảo, Sự Tốt
Lành, như Đức Giêsu từng trả lời anh thanh niên giàu có : “Không có ai tốt lành
cả, ngoại trừ một mình TC” (Mc 10,18). Chúa Con là Sự Thật, như Đức Giêsu từng
khẳng định : “Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14,6). Vậy Thánh Thần
chính là Sự Mỹ, Sự Đẹp, là Tình yêu. Trong kinh “Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin ngự
đến” (Veni Creator Spiritus), chúng ta xưng tụng Người “là lửa thiêng, tình mến, suối dạt dào” tức
là lửa tình yêu, suối thương mến, và cầu xin Người “đổ tình thương cho tràn ngập
tâm hồn tín hữu.”
Nhưng
dù là Chân, Thiện, Mỹ, chung quy lại cũng chỉ là Tình yêu, đúng như bản chất của
Thiên Chúa. Sự Tốt lành, Thánh thiện (lành thánh) nơi Thiên Chúa và nơi chúng
ta, đó là yêu thương. Càng yêu càng thánh ! Rồi trên đời này, chỉ có một Sự Thật
duy nhất bao trùm mọi sự thật, đó là “Thiên Chúa là Tình yêu” (x. 1Ga 4,8), và
mọi việc Người làm đều vì tình yêu cả. Chính vì thế mà Người là Vẻ đẹp khiến
thánh Augustinô và mọi vị thánh đều say mê chiêm ngưỡng. Đức
Giáo hoàng Phanxicô cũng từng nói : “Thiên Chúa là vẻ đẹp vĩ đại !” Khi gọi
Chúa Giêsu là “Đứa con đẹp nhất trong loài người”, thần học tu đức không căn cứ
trên một bức ảnh vẽ hay ảnh chụp, một miêu tả chính xác của kẻ đương thời về
khuôn mặt của Người ! Làm gì có ! Nhưng chỉ muốn nói : Không ai đã yêu cho bằng
Chúa Giêsu, yêu đến cùng đường và đến cùng độ !!!
Thánh Augustinô, trong De Civitate Dei (Đô
thành Thiên Chúa) thì dùng bộ ba : Hiện hữu (x. Xh 3,14), Trí tuệ, Tình yêu.
3- Về hoạt động của Thiên Chúa giữa vũ trụ và
nhân loại, có 3 giai đoạn trong chương trình của Người : sáng tạo - cứu chuộc - thánh hóa.
Dĩ nhiên cả Ba Ngôi đều cùng làm : Chúa Cha
đã sáng tạo vạn vật nhờ Con, trong Con và cho Con (x. Cl 1,16-) rồi nhờ Thánh
Thần liên kết mọi thụ tạo. Chúa Cha đưa ra ý định, chương trình và đường lối
cho Chúa Con thực hiện công cuộc nhập thể cứu chuộc, với quyền năng lẫn ánh
sáng của Thánh Thần (ban cho từ khi Người tượng thai, chịu phép rửa, và thành
toàn khi Người sống lại). Chúa Cha thánh hóa nhân loài và vạn vật, nghĩa là làm
cho nên giống Người và đưa về với Người (“Hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh” Lv
19,2) nhờ hoạt động của Thánh Thần qua các bí tích mà Chúa Con đã thiết lập.
Nhưng nói theo kiểu biệt ứng thì như giáo lý dạy, sáng tạo là công trình của
Ngôi Nhất, cứu chuộc là công trình của Ngôi Hai và thánh hóa là công trình của
Ngôi Ba.
Ở đây, thiết tưởng cũng nên nói đến quan điểm
của Kitô giáo về lịch sử.
4- Ba giai đoạn theo cái nhìn Kitô giáo về lịch sử : tiến hóa, văn hóa, thánh hóa.
Theo cái nhìn của Kitô giáo, thì lịch sử của
vũ trụ và nhân loại cũng gồm 3 giai đoạn : tiến hóa, văn hóa (hiểu như một động từ) và thánh hóa. Quả vậy, thế giới tự nhiên
chính là công trình sáng tạo của Thiên Chúa gồm đủ mọi loài có tầng bậc, với những
biến đổi tiến lên cao dần, gọi là “tiến hóa”.
Thấp nhất là các nguyên tử rồi lên phân tử, phân tử vô cơ lên phân tử hữu cơ,
đơn bào lên đa bào, khoáng vật lên sinh vật, thực vật lên động vật và cuối cùng
lên con người, chóp đỉnh cuộc sáng tạo vật chất, có một thân thể hoàn hảo kỳ diệu,
với một nguyên lý điều khiển là linh hồn.
Khi sinh vật có hồn thiêng này xuất hiện, nó
đã tiến hóa theo hướng tinh thần, đi từ “con” lên “người”, làm cho 3 bản năng
mình có chung với động vật (sinh tồn, truyền sinh, quyền lực, xem dưới) trở nên
đẹp hơn (văn hóa, hiểu như động từ : văn là đẹp, hóa là thành), mang tính nhân
bản hơn, nhờ luật luân lý mà Thiên Chúa đã đặt trong lòng người. Để từ đó nỗ lực
tiến đến chân, thiện, mỹ, làm nên văn minh, xây dựng văn hóa (hiểu như danh từ),
sáng tạo văn vật (truyền thống, công trình nghệ thuật….). Điều này đã biểu lộ qua
các nền văn minh, các nền đạo đức và các tôn giáo (ngoài Kitô giáo) của nhân loại.
Đó cũng là sự dọn đất cho Tin Mừng.
Nhưng hành trình của nhân loại không chỉ dừng
lại ở giai đoạn văn hóa. Ngay cả
việc thực hiện và hoàn tất giai đoạn này, tức đạt tới chân thiện mỹ vừa trong ý
niệm vừa trong cuộc sống, cũng chẳng dễ gì với sức riêng con người, huống nữa
là đạt tới Đấng Chân Thiện Mỹ. Bởi lẽ luôn có những kháng lực là sự lộng hành của
bản năng (xác thịt), sự cám dỗ của tà thần (quỷ dữ), sự lôi kéo của trần tục
(thế gian). Các Tuyên ngôn Nhân quyền đủ loại của Liên Hiệp Quốc có đó, nhưng
cõi trần gian này hiện vẫn đầy bạo lực đàn áp, ích kỷ bất nhân, dối trá lường gạt,
chiến tranh hận thù….
Nhờ ánh sáng của Mạc khải, chúng ta biết hành
trình của toàn thể nhân loại tiến đến giai đoạn văn hóa đã được Thiên Chúa trợ
lực (Mười Điều răn, định chế tuần 7 ngày, việc nghỉ cuối tuần có từ trong Cựu Ước
là những ví dụ), đồng thời còn phải bước tới giai đoạn thánh hóa, phải tiến lên Con Người Mới, Thân Thể Mới, Nhân Loại Mới,
Trời Đất Mới trong Thiên Chúa (x. Giáo lý Hội thánh Công giáo số 795) : “Đức Kitô đã liên kết dân
Do-thái và dân ngoại làm một… Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy
nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2,14.16), “…xây dựng thân thể Người,
cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận
biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên
mãn của Đức Kitô” (Ep 4,12-13), nhờ tác động của ân sủng, quy tụ mọi cá
nhân, để làm nên một tập thể vĩ đại, mà như thư Ê-phê-xô và Cô-lô-xê gọi là Hội
Thánh với Đức Kitô là Đầu : “Hội Thánh này là Thân thể của Người, là sự viên
mãn của Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,23; x. Cl 1,18).
5- Ba chiều kích thời gian :
quá khứ, hiện tại, tương lai.
Trước hết nên lưu ý rằng khi hiện hữu trên trần
thế, con người và vạn vật chỉ đứng ở biên giới của quá khứ và tương lai. Duy
mình Thiên Chúa mới có hiện tại, hiện tại sung mãn. Điều đó có nghĩa (a) Thiên
Chúa chẳng bị giới hạn bởi, chẳng phải lệ thuộc vào không gian và thời gian (tương
lai lẫn quá khứ) ; (b) Người là nguồn hiện hữu vĩnh cửu của mọi sự ; (c) tất cả
những gì đã xảy ra và sẽ xảy ra trong vũ trụ đều được bảo tồn trong thế giới của
Thiên Chúa, và cuộc phán xét riêng lẫn phán xét chung (như giáo lý dạy) sẽ bày
tỏ chúng cách trọn vẹn. Những ai từng trải qua kinh nghiệm cận tử (chết giả) đều
xác nhận là mình đã thấy trong nháy mắt và rất rõ rệt tất cả cuộc đời mình từ
khi sinh ra cho đến lúc ấy.
Theo quan điểm con người, Chúa Con đã đến và
đã hoàn thành công trình của mình trong quá khứ, phân lịch sử làm hai : trước
Công nguyên và Công nguyên.
Còn Chúa Thánh Thần sẽ hoàn tất công trình của mình trong tương lai, khi cuộc
Quang lâm thể hiện.
6- Ba thái độ đối với TC nơi con người xét
như tạo vật : cảm tạ, ngợi khen, cầu xin.
Cả 3 thái độ này, trong mức độ tối hảo, chỉ
quy về Thiên Chúa, vì duy mình Người mới xứng đáng với những điều đó, do tất cả
những gì vĩ đại, tuyệt vời và hữu hiệu mà Người đã tỏ cho ta thấy và đã ban cho
ta hưởng. Nhưng xét theo kiểu biệt ứng, thì đối tượng của việc cảm tạ chính là Chúa
Cha, nguồn mọi ân phúc : “Anh em hãy vui mừng tạ ơn Chúa Cha, Đấng đã làm cho anh em
nên xứng đáng hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong ánh sáng” (Cl 1,12) ; "Bất cứ điều gì anh em nói hay làm,
thì hãy nói hãy làm nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa
Cha" (Cl 3,17). Đối tượng của việc ngợi khen là Chúa Con, như sau khi nghe bài Tin Mừng,
chúng ta thưa : “Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.” Hay khi mở đầu một chặng đàng
Thánh giá, chúng ta đọc : “Chúng con thờ lạy và ngợi khen Chúa Kitô vì Chúa đã
dùng Thánh giá mà chuộc tội cho thiên hạ.” Chúng ta ngợi khen Chúa Con vì đã thực
hiện công trình tuyệt diệu của Thiên Chúa giữa nhân loại : mạc khải cho biết
Thiên Chúa là ai, hành động hiến thân để cứu rỗi toàn thể vũ trụ, hoàn thành mọi
sự trong ngày Cánh chung...
Còn đối
tượng của việc cầu xin thì có nhiều, nhưng chủ yếu chẳng phải là Thánh Thần như trong câu sau đây của Tin Mừng
Luca sao : “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ
xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi là Cha trên trời sẽ ban
Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13). Tất cả những món
quà đến từ Thiên Chúa đều không phải bởi lời cầu xin, vì Thiên Chúa luôn ban
cho chúng ta những gì Người thấy chúng ta cần (x. Mt 6,32-33). Nhưng ân huệ tốt
nhất và lớn nhất đáng cầu xin là Chúa Thánh Thần. Vì nhờ Thánh Thần, chúng ta mới
có thể kêu lên “Abba ! Cha ơi !” với Thiên Chúa (x.
Rm 8,15; Gl 4,6), mới có thể nên thánh như Cha đòi hỏi. Vì nhờ Thánh Thần, chúng ta mới được dẫn tới sự thật toàn
vẹn (x. Ga 16,13), tức hiểu biết vẹn toàn về Chúa Giêsu Kitô để lấy Người làm lẽ
sống và gương mẫu.
7- Ba nhân đức đối thần xét như nghĩa tử :
tin, cậy, mến.
Đây là những ơn Chúa
ban cho tín hữu và họ phải phát triển thêm lên để sống một cuộc đời tốt đẹp và
hướng đến Thiên Chúa. Đức Tin giúp chúng ta tin tưởng và chấp nhận những
điều Thiên Chúa đã mặc khải cũng như gắn bó với chính Người. Đức Cậy giúp chúng
ta trông cậy vào lời hứa của Thiên Chúa là mình sẽ đoàn tụ với Ba Ngôi trong hạnh
phúc vĩnh cửu. Đức Mến giúp chúng ta yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân như chính
mình để có hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Lời kinh Năm
thánh 2025 cũng không nói gì khác : “Lạy Cha trên trời, xin cho ơn đức tin mà Cha ban tặng
chúng con trong Chúa Giêsu Kitô, Con Cha và Anh của chúng con, cùng ngọn
lửa đức ái được thắp lên trong
tâm hồn chúng con bởi Chúa Thánh Thần, khơi dậy trong chúng con đức
cậy hồng phúc hướng về Nước Cha trị đến.”
Nói theo kiểu biệt ứng thì chúng ta tin Chúa
Con vì Người là Sự Thật đã đến trần gian, mến Chúa Cha vì Người là Sự Thiện
muôn đời hằng có, cậy Chúa Thánh Thần vì Người sẽ hoàn tất kế hoạch Thiên Chúa
trong tương lai. Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại (x. 1Cr
13,13). Nhưng đức tin và đức cậy sẽ qua
đi. Vì khi nhìn thấy Thiên Chúa mặt
đối mặt, chúng ta không còn cần phải tin vào Người nữa ; và khi được hưởng sự
sống đời đời, chúng ta sẽ không còn cần phải cậy trông vào Người nữa. Riêng
đức mến thì tồn tại mãi, vì đức mến là tình yêu thương, và tình yêu thương sẽ
chẳng bao giờ chấm tận.
8- Ba chức năng xét như tín hữu : tư tế, ngôn
sứ, vương đế.
Giáo lý Hội thánh Công giáo số 783 viết : “Chúa Cha đã dùng Thánh Thần xức dầu và thiết đặt Chúa Giêsu Kitô làm ‘Tư
tế, Tiên tri và Vương đế.’ Toàn thể dân Thiên Chúa tham dự vào ba chức năng này
của Đức Kitô và lãnh trách nhiệm về sứ vụ và về sự phục vụ, xuất phát từ ba chức
năng đó.” Vậy là cả Ba Ngôi đều can dự vào việc ban chức năng tư tế, ngôn sứ và
vương đế cho Kitô hữu. Giáo lý Hội thánh Công giáo số 786 còn trích lời
của Thánh Lêô Cả : “Có gì mang tính
vương đế đối với một tâm hồn cho bằng hướng dẫn thân xác mình quy phục Thiên
Chúa ? Và có gì mang tính tư tế cho bằng dâng lên Chúa một lương tâm trong sạch
và dâng những lễ vật tinh tuyền của lòng đạo hạnh trên bàn thờ của trái tim ?”
Tư tế là đem bản thân mình làm của lễ, kết hợp
với của lễ cao trọng là Chúa Kitô để dâng cho Thiên Chúa Cha, như ý của Vinh tụng ca kết thúc Kinh nguyện Thánh
Thể và là đỉnh cao của Thánh lễ : “Chính nhờ Người, với Người và trong Người,
mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hợp nhất
của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.”
Ngôn sứ là công bố những gì Chúa Kitô đã làm
trong Kinh thánh và những gì Kinh thánh đã nói về Người (x. Lc 24,44; Ga 5,39),
đồng thời làm chứng nhân cho Người khắp mọi nơi và mọi lúc, bằng ngôn hành, bằng
trọn cuộc sống và bằng cả cái chết.
Vương đế là làm cho bản thân và cả nhân loại
quy phục Thiên Chúa, công nhận Người là Vua của mọi tâm hồn và toàn thể vũ trụ.
Việc này chỉ có thể thực hiện nhờ Thánh Thần, Linh hồn của Thân thể Mầu nhiệm,
ánh sáng và sức mạnh của Kitô hữu. Điển hình là câu chuyện ngày lễ Ngũ Tuần :
sau khi nhận lãnh Thánh Thần, các Tông đồ đã nói nhiều thứ tiếng để thu phục
nhiều sắc tộc, rồi ra đi khắp nơi, làm cho muôn dân trở thành môn đệ, thành thần
tử của Thiên Chúa.
9- Ba khả
năng xét như hữu thể có tinh thần : trí năng, chí năng và cảm năng.
Trí là biết, chí là muốn và cảm là chạm (Từ
điển Hán Việt). Trí năng bảo con người tìm biết sự thật, chí năng bảo con người
ước muốn sự thiện. Nhưng biết sự thật và muốn sự thiện chưa hẳn đã chấp nhận,
đi theo, vì có thể bị ba bản năng hay ba kẻ thù (xem dưới) lôi xa khỏi. Thánh
Phaolô từng than thở : “Muốn sự thiện thì tôi có thể, nhưng làm điều thiện thì
tôi không thể, vì điều thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều ác tôi
không muốn thì tôi cứ làm.” (Rm 7,18-19). Cần có một sự trợ lực từ cảm năng (do
“nhân chi sơ tính bổn thiện”) khiến con người chạm đến, nắm bắt sự thật, theo
đuổi sự thiện. Cảm năng như ánh sáng giúp đôi mắt nhìn ra sự vật, như chất xúc
tác trong các phản ứng hóa học. Nên chẳng lạ gì trong thế giới ngoại giáo, vẫn
luôn có những chính nhân quân tử.
Đối với Kitô hữu, chí năng bảo họ ước muốn sự
Thiện tối cao là Thiên Chúa (Cha), trí năng bảo họ tìm biết sự Thật tối thượng
là Thiên Chúa (Con), thế nhưng phải có sự trợ lực của cảm năng thiêng liêng là
Chúa Thánh Thần qua 7 ơn của Người. Người giúp chúng ta chiến thắng mọi trở ngại
trên đường sống đức tin nhờ ơn dũng cảm ; làm chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha và
yêu mến Người như Hiền phụ nhờ ơn kính sợ, ơn hiếu tử ; dẫn chúng ta tới Sự thật
toàn vẹn về Đức Kitô nhờ ơn thấu hiểu rồi ơn thượng trí (thường gọi là khôn
ngoan).
10- Ba
bản năng xét như hữu thể có hồn xác : quyền lực, sinh tồn, truyền sinh.
Trong thế kỷ 20, các nhà tâm lý học (Alfred
Adler, Carl Jung và Sigmund Freud) đã xác định được rằng nơi mỗi con người có 3
bản năng (năng lực cơ bản) : sinh tồn, quyền lực và truyền sinh. Đây là 3 sức
thúc đẩy chủ yếu trong cuộc đời của con người có hồn có xác và sống với sống
cùng : bản năng sinh tồn thúc đẩy chúng ta ăn uống, giữ gìn sức khỏe để tồn tại,
bản năng quyền lực thúc đẩy chúng ta tìm cách để được người khác công nhận mà có
chỗ đứng trong cộng đồng, bản năng truyền sinh thúc đẩy chúng ta tìm cách tồn tại
lâu dài nơi con cháu một khi chết đi.
Nhưng ba bản năng này rất dễ quá trớn, lộng
hành, do chỗ chúng luôn gây cảm khoái khi được thỏa mãn. Bản năng sinh tồn dễ
khiến ta chỉ lo tìm cách hưởng thụ mọi thú vui như ăn uống vui chơi, mà quên đi
những chuyện quan trọng. Bản năng truyền sinh dễ khiến ta chỉ lo tìm đạt được
thật nhiều khoái lạc xác thịt, ngoài vòng luân lý hôn nhân, vì thế nó cũng có
khi được gọi là bản năng tính dục (libido), vì truyền sinh đi liền với tính dục
; nói cách khác, khi trở nên lộng hành, bản năng truyền sinh trở thành bản năng
tính dục. Bản năng quyền lực dễ khiến ta thay vì được kẻ khác công nhận nhờ tài
năng đức hạnh thì lại muốn dùng sức mạnh, uy quyền để thống trị tha nhân và coi
tha nhân như phương tiện cho mình… Tất cả những gì xấu xa tệ hại, bất hạnh khổ
đau, lỗi lầm tội ác nơi mỗi người và cả nhân loại suốt mọi thời đại đều xuất
phát từ sự lộng hành thác loạn của 3 bản năng ấy (chính thể độc tài bạo ngược,
chiến tranh giành đất diệt chủng, chế độ nô lệ buôn người, tệ nạn đa thê mãi
dâm, đam mê tứ khoái, cuồng vọng sang giàu, ám ảnh danh vọng, ích kỷ vô tâm...).
Thiết tưởng ở đây cũng nên nói đến 7 mối tội
đầu. Tội thứ nhất, kiêu ngạo, liên quan đến bản năng quyền lực. Tội thứ hai, hà
tiện, liên quan đến bản năng sinh tồn. Tội thứ ba, dâm dục, liên quan đến bản
năng tính dục. Tội thứ bốn, giận dữ, liên quan đến bản năng quyền lực, vì không
có gì làm ta phẫn nộ khi bị coi thường hạ nhục hay bị bất tuân lệnh truyền (đối
với kẻ độc tài bạo ngược). Tội thứ năm, mê ăn uống, liên quan đến bản năng sinh
tồn. Tội thứ sáu, đố kỵ, được đặc
trưng bởi một ham muốn và thèm khát vô độ (Wikipedia). Nếu nhớ lại Điều răn thứ
9, chớ ham muốn vợ chồng người, thì có thể cho rằng tội này chủ yếu liên quan đến
bản năng tình dục. Tội thứ bảy, lười biếng, là thái độ thụ động, không chịu điều
khiển 3 bản năng nói trên.
11- Ba kẻ
thù vây lấy cuộc sống con người : quỷ dữ, thế gian, xác thịt.
Giáo lý dạy chúng ta biết có 3 kẻ thù (ba
thù) luôn vây lấy cuộc sống và bản thân chúng ta, để làm chúng ta xa Chúa : quỷ
dữ, thế gian và xác thịt.
Trước hết, Thánh Kinh cho thấy Satan, quỷ dữ,
chính là vị thiên thần sa ngã vì bất phục tùng Thiên Chúa, không chấp nhận thờ
lạy Ngôi Con nhập thể làm người (x. Hr 1,5-6). Thành ra y luôn luôn cám dỗ Chúa
Giêsu bày tỏ quyền lực, kiến tạo uy danh, từ bỏ con đường cứu chuộc bằng khiêm
hạ tủi nhục và đau khổ mất mạng. Y cũng từng xúi giục Phêrô ngăn cản Thầy đi
vào nẻo lối khổ nạn này (x. Mt 16,22-23). Y cũng gieo vào lòng Giuđa ý định nộp
Chúa (x. Ga 13,2), khiến Người sẽ bị kết án tử, một kiểu dồn Người đến đường
cùng để Người dùng quyền lực mà cứu mình và cứu thế.
Quỷ dữ luôn làm cho ta bất tuân lệnh Chúa, kiêu căng với người, tự tôn tự đại.
Thế gian với tất cả vinh hoa của nó hiển
nhiên liên quan đến bản năng sinh tồn. Nó quyến rũ chúng ta ham mê sự đời, lo sống
để hưởng thụ tiện nghi và của cải.
Xác thịt (theo nghĩa tu đức) là kẻ thù nằm
trong chính bản thân chúng ta. Nó rõ ràng liên quan tới bản năng tính dục, vì đẩy
chúng ta vào những đam mê tội lỗi, thỏa mãn thói tà dâm.
12- Ba lời
khuyên Tin Mừng : khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục.
Nhưng từ gần 2000 năm nay, cụ thể từ thế kỷ
IV, khi việc toàn hiến cho Thiên Chúa không còn qua chuyện tử đạo mà qua chuyện
tu trì, thì Giáo hội, nhìn vào gương Chúa Giêsu, đã đề ra 3 lời khuyên, 3 lời
khấn Tin Mừng : khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục.
Tự bản chất, đó là 3 phương thế để chế ngự 3
bản năng nói trên (mà lúc đó tâm lý học chưa khám phá và trình bày). Khó nghèo
để chế ngự bản năng sinh tồn, khiết tịnh để chế ngự bản năng tính dục, và vâng
phục để chế ngự bản năng quyền lực. Tất cả nhằm giúp Kitô hữu sống thánh thiện,
sống mến yêu.
Kết luận
Có thể còn nhiều bộ ba khác. Những gợi ý trên
đây cho thấy Thánh Kinh, thần học tín lý, thần học luân lý, thần học tu đức và
triết học đều liên quan với nhau ; cũng như có sự liên quan với nhau giữa mọi
thực tại, vì hết thảy đều phát xuất từ một nguồn là Thiên Chúa độc nhất.
Ngoài ra, người viết cũng mong giúp độc giả
liên kết các kiến thức rời rạc thành một cái nhìn tổng hợp, hầu đào sâu giáo lý,
để có thêm lý do mà dâng lên lời ngợi khen và cảm tạ Cha Tròi.
15-06-2025, lễ Chúa Ba Ngôi, Năm thánh thường
lệ.
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Tổng Giáo phận
Huế.
Nhiều nhà Thánh kinh học và thần học cho cách dịch này
hay hơn cách dịch “nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất.” (Xem BJ [Bible de
Jérusalem] và TOB [Traduction oecuménique de la Bible]).