CÁC THIÊN THẦN, PHẦN HỒN CỦA THÂN THỂ MẦU NHIỆM
Thánh
Phao-lô, ở đỉnh cao suy tư thần học vào cuối đời, từng xác quyết về Đức Ki-tô
như sau: “Thánh Tử là Hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là Trưởng tử sinh ra
trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng
dưới đất, hữu hình với vô hình. Dầu là Bệ thần hay Quản thần, Lãnh thần hay Quyền
thần,
tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn
loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là Đầu của Thân thể,
nghĩa là đầu của Hội Thánh…” (Cl 1,15-20). Và “Thiên Chúa cho ta được
biết thiên ý nhiệm mầu, thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ
trước trong Đức Ki-tô. Đó là… quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một
thủ lãnh là Đức Ki-tô….tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng”
(Ep 1,9-10.21).
Những
lời ấy cho thấy ngay cả thọ tạo vô hình, tức là các thiên thần, cũng thuộc về
Đức Ki-tô, Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG) số 331 gọi Người là trung tâm
của thế giới thiên thần. Nghĩa là các thiên thần thuộc về Hội Thánh, Thân Thể
Mầu Nhiệm (gọi tắt là Nhiệm Thể) của Chúa Ki-tô, một thực thể bao gồm toàn bộ
vũ trụ.
Trước
khi trình bày các vị như là phần hồn của Nhiệm Thể, xin minh định ngay một điều
quan trọng: họ là phần hồn chứ không phải là Linh hồn của Nhiệm Thể. Chính Chúa
Thánh Thần mới là Linh hồn của Nhiệm Thể, như lời thánh Phao-lô nói: “Chỉ có
một Thân thể, một Thần Khí” (Ep 4,4, x. 1Cr 12,13). Đức
Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI cũng từng dạy: Chúa Thánh Thần
là Linh hồn của Giáo hội,
và nếu không có Người,
Giáo hội sẽ chỉ là một tổ chức nhân loại mà thôi (CNA 31-05-2009. Xem GLHTCG 809).
1-
Thiên thần, loài thọ tạo đặc biệt
Thiết tưởng chúng ta không nên thoạt tiên cho rằng
Thiên Chúa đã tạo dựng các thiên thần để lo phục dịch quanh Người, y như một
ông vua cần có quần thần hầu hạ để sướng thân, có cung phi mỹ nữ đàn hát cho
vui tai. Bản thân Ba Ngôi Thiên Chúa đã tự mình có đủ vinh quang và hạnh phúc,
chẳng cần ai cho thêm nữa. Vả lại, ngay từ ngữ “thiên thần” (=tôi
tớ Thiên Chúa, tiếng Việt dịch chữ “angelus/ange/angel” của La/Pháp/Anh) bắt
nguồn từ tiếng Hip-ri “mal'ak”, tiếng
Hy-lạp “angelos”, có nghĩa là “sứ giả”. Đây là cách gọi không do bản tính nhưng do chức vụ: thiên thần là những hữu thể
được Thiên Chúa sai đi (nên còn có cách dịch: “sứ thần”, “thần sứ”, “thiên
sứ”). Sai
đi thi hành thánh ý, mệnh lệnh của Người, phục vụ công việc của Người (x. Tv 103,20).
Công việc đó không gì khác là chương trình cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện nhờ
Ngôi Hai nhập thế và nhập thể, với mục đích tối hậu là quy tụ muôn loài đã được
cứu chuộc vào trong Đức Ki-tô, làm nên Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, hầu đưa
tất cả về với Thiên Chúa (x. 1Cr 15,28). Thư Do Thái gọi các thiên thần là những “bậc thiêng liêng được sai đi để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hướng ơn cứu độ” (1,14).
Chương trình cứu độ này khởi
đầu từ vườn Địa đàng và hoàn tất trong ngày Chúa Ki-tô quang lâm, “khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất
cả các thiên sứ theo hầu…” (Mt 25,31).
Trong công trình ấy, đứng
ngay sau Chúa Ki-tô chính là Đức Ma-ri-a. Vì thế Giáo hội xưng tụng Mẹ, dù là
phàm nhân, vẫn là Nữ hoàng Thiên quốc, Nữ vương chín phẩm thiên thần. Và chính
vì được sai đi thực hiện mệnh lệnh Thiên Chúa dưới trần gian, thấy được những
kỳ công tình yêu của Người nơi cõi thế, các thiên thần có thêm lý do để ca
ngợi, cảm tạ Thiên Chúa, cầu xin cho loài người và dâng lên những lời nguyện của họ (x. Tb 12,12) trên chốn triều đình Thiên
quốc.
Để thử
hình dung việc Thiên Chúa tạo dựng các thiên thần ra sao và bản tính các vị thế
nào, thiết tưởng trước tiên cần nhớ lại việc sản sinh trong Thiên Chúa. Thiên
Chúa tự đời đời đã có một ý tưởng về mình và từ đó sinh ra Ngôi Lời (vì phản ảnh
hoàn toàn Thiên Chúa, x. Ga 1,1-14,). Ngôi Lời được gọi là Ngôi Con và Đấng
sinh thành được gọi là Ngôi Cha. Tình yêu giữa Ngôi Cha và Ngôi Con làm nên
Ngôi Thánh Thần. Cả ba Ngôi đồng bản tính và đồng bản thể (nên một Thiên Chúa).
Về loài
người chúng ta, vốn là những hữu thể đã được Thiên Chúa chọn trước cả khi tạo
thành vũ trụ, được tiền định cho làm nghĩa tử (x. Ep 1,4-5), được
Người cấu tạo tạng phủ, dệt tấm hình hài trong dạ
mẫu thân (x. Tv 139,13),
thì theo lối nói của triết học thánh Tô-ma A-qui-nô (mô chất thuyết), mỗi con
người chính là một ý tưởng và tình cảm của Thiên Chúa in vào vật chất, làm nên
một ngôi vị, một nhân vị (có trí hiểu/tư tưởng, lòng mến/tình cảm và ý chí tự
do, trong một xác thể).
Vậy nếu các thiên
thần là những thụ tạo thiêng liêng, những ngôi vị có trí hiểu, lòng mến và ý chí
tự do, nhưng vì là những hữu thể được Thiên Chúa sinh ra và sai đi phục vụ công
trình của Người là xây dựng Nhiệm Thể, nên các ngài phải được coi như một thành
phần của Nhiệm Thể, làm nên phần hồn, trong lúc loài người và mọi thụ tạo vật
chất làm nên phần xác. Và có thể quan niệm bản tính của các ngài chính là những
ý tưởng và tình cảm của Thiên Chúa đối với Nhiệm Thể mà đã trở nên những ngôi vị. Ngoài ra, các ngài còn bất tử, trổi vượt hơn mọi thụ tạo hữu hình về mặt hoàn hảo. Vinh quang rực
rỡ của các ngài minh chứng điều ấy (x. GLHTCG 330).
Ở đây ta nhớ lại rằng
trong Cựu Ước, nơi các cuộc thần hiện xảy ra cho một số nhân vật (như Mô-sê
trong hoang địa, Xh 3,1tt; Ghít-ôn tại gia đình, Tl 6,6-15…), từ “Thiên Chúa” và
từ “sứ thần/thiên sứ” hay hoán đổi cho nhau. Chẳng hạn Xh 3,1-6: “Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế
Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi
Khô-rếp. Thiên sứ của ĐỨC CHÚA hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi
cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông
tự bảo : "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được : vì sao bụi cây
lại không cháy rụi ?" ĐỨC CHÚA thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây
Thiên Chúa gọi ông : "Mô-sê ! Mô-sê !" Ông thưa : "Dạ, tôi đây
!" Người phán : "Chớ lại gần ! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi
đang đứng là đất thánh." Người lại phán : "Ta là Thiên Chúa của
cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của
Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa”. Việc hoán đổi danh xưng này không có gì
khó hiểu. Trên
phương diện tinh thần, tôi biểu lộ mình qua tư tưởng và tình cảm. Tư tưởng và
tình cảm của tôi chính là tôi trên phương diện tinh thần. Tình cảm và tư tưởng của Thiên Chúa (bên
ngoài bản tính và bản thể của Người, tức các thiên thần) thì cũng như chính Người
vậy.
2- Các
thiên thần là tư tưởng và tình cảm của Thiên Chúa ra sao?
Pseudo-Dionysius, một triết gia Ki-tô giáo cuối thế kỷ 5, đã sử dụng nhiều đoạn từ Cựu
Ước lẫn Tân Ước để đưa ra một phẩm trật
thiên thần trong cuốn “De Cœlesti Hierarchia” (Về Phẩm trật trên trời) của
ông. Các thiên thần được phân hạng và xếp loại, được
tổ chức thành ba cấp và chín phẩm, mỗi cấp có ba phẩm. Cấp I gồm có Seraphim (Xê-ra-phim,
Luyến Thần), Cherubim (Kê-ru-bim, Minh Thần) và Ophanim
(Ô-pha-nim, Throni, Bệ Thần). Cấp II gồm Dominationes (Quản Thần), Virtutes
(Dũng Thần) và Potestates (Quyền Thần). Cấp III gồm Principatus
(Lãnh Thần), Archangeli (Tổng Thần,
Tổng lãnh Thiên thần) và Angeli (Hộ Thần,
Thiên thần Hộ thủ). Cho tới nay, việc phân hạng
và xếp loại của Pseudo-Dionysius vẫn được các nhà thần học công nhận.
Người
ta đã đưa ra nhiều cách thích lẫn mô tả về 3 cấp, 9 phẩm thiên thần ấy,
nhưng hầu hết chỉ nói đến mối liên hệ giữa các ngài với Thiên Chúa như Đấng Tạo
Hóa và với loài người hay thế giới loài người cách chung. Đặt trong nhãn giới
“các thiên thần là những sứ giả phục vụ công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi dưới
gian trần, là những tư tưởng và tình cảm của Thiên Chúa (Ngôi Con) đối với Thân
Thể Mầu Nhiệm của mình, là phần hồn của Nhiệm Thể Đức Ki-tô”, thì chúng có thể
lý luận như sau:
Để
thực hiện một công trình, trước hết tác giả phải có lòng yêu mến công trình đó,
hiểu biết đại cương công trình đó và có một kế hoạch để làm cho công trình được
chắc chắn, vững chãi.
Thứ
đến, phải dùng tất cả mọi sức lực (trí tuệ, uy tín, ảnh hưởng, tài chính, nhân
viên bảo vệ, phương án đề phòng những cản trở) để giữ gìn cho công trình được
an toàn và lớn mạnh.
Cuối
cùng, phải nắm được công trình trong mọi phần của nó, từ lớn đến nhỏ, từ rộng
đến hẹp, từ đại thể đến chi tiết, từ cái phức tạp đến cái đơn giản, để thực
hiện một sự phối hợp hoàn hảo.
a- Ba
phẩm thiên thần cấp I gồm Xê-ra-phim
(Luyến Thần, Thần Sốt Mến), Kê-ru-bim (Minh Thần,
Thần Trí Tuệ) và Ô-pha-nim (Bệ Thần,
Ngai Thần) vậy
phải chăng chính là tình yêu, sự hiểu biết và là kế hoạch củng cố của Thiên
Chúa dành cho Nhiệm Thể mà trong thực tế đã thành những ngôi vị?
Thiên
thần Xê-ra-phim đã được đề cập trong I-sai-a 6,1-7. Các
vị hầu cận ngai Thiên Chúa và liên tục hát
lời ca ngợi: "Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là
Đấng Thánh!”. Sự thánh thiện
của Thiên Chúa chính là Tình yêu, tình yêu vừa biểu hiện nơi bản thân lẫn nơi
hành động của Người. Rồi một trong các thiên thần Xê-ra-phim gắp hòn than hồng
chạm vào miệng ngôn sứ I-sai-a để ông được tha lỗi và xá tội (phạm tội là không
yêu mến). Trong Phụng vụ, thiên thần Xê-ra-phim được nhắc tới trong Kinh Tiền
tụng Mùa Chay IV (hiệu quả của chay tịnh), Kinh Tiền tụng Đức Mẹ I (thiên chức
làm mẹ của Đức Trinh Nữ), Kinh Tiền tụng chung II (ơn cứu độ nhờ Đức Ki-tô). Ba
Kinh Tiền tụng này nói đến tình yêu Thiên Chúa hay việc trở về với tình yêu
Thiên Chúa.
Sau khi nguyên tổ ăn trái cây biết lành biết
dữ, phạm tội bất tuân (x. St 2,6), bị đuổi khỏi địa đàng, Thiên Chúa đã dùng
thiên thần Kê-ru-bim
để canh giữ cây hiểu biết đó và cả cây trường sinh nữa (x. St 3,24). Thiên thần
Kê-ru-bim cũng đã được ông Mô-sê theo lệnh Thiên Chúa đúc thành hai tượng bằng vàng đặt ở 2 đầu của Hòm Bia (x. Xh 25,18-20) trong đó sẽ đặt Chứng Ước (Bản Thập giới) biểu lộ ý muốn
Thiên Chúa mà con người cần phải hiểu rõ, và từ trên đó Thiên Chúa sẽ ban cho
ông Mô-sê các chỉ thị của Người (x. Ds 7,89).
Các Bệ thần được
chính thánh Phao-lô đề cập rõ ràng trong thư Cô-lô-xê 1,16 (đầu bài). Theo tác
giả Wesly Baines (bài đã dẫn, xem chú thích 3), phẩm thiên thần này thuộc số
những vị có hiểu biết cao nhất về các công việc của Thiên Chúa, có khả năng
truyền đạt bản chất đầy đủ của lời Chúa, chuyển các sứ điệp cho những thiên
thần cấp thấp hơn. Trong Phụng vụ, các Bệ thần được nhắc tới trong các Kinh
Tiền tụng Mùa Vọng I, Mùa Vọng II, Giáng Sinh I, Hiển Linh là các kinh cho thấy
Thiên Chúa bắt đầu thực hiện kế hoạch cứu độ của Người; trong Kinh Tiền tụng
Thánh Thể I vốn nói đến Hy lễ và bí tích của Đức Ki-tô là đỉnh cao việc thực hiện
kế hoạch cứu độ.
b- Ba
phẩm thiên thần cấp II gồm Quản Thần (Dominationes,
Dominions), Dũng Thần (Virtutes, Virtues) và Quyền Thần
(Potestates, Powers) chẳng cho thấy rằng đó chính là các dạng sức mạnh mà Thiên
Chúa cần phải bày tỏ -và
rồi đã biến thành những hữu thể có ngôi vị- để kế hoạch cứu độ thắng được các trở ngại, các kẻ
thù (ma quỷ) mà thành toàn hay sao?
Quản Thần được nhắc đến trong Thư Cl 1,16 và 1Cr
15,24. Theo Bách khoa Toàn thư Wikipedia, các vị được coi là những thiên thần lãnh đạo, điều phối hoạt động
của các thiên thần cấp dưới. Nhiệm vụ chính của họ là giữ gìn trần thế đi đúng hướng bằng cách ban sức mạnh cho những nhà cai trị đất nước. Điều này cần thiết cho việc thực hiện ơn cứu
độ. Theo tác giả Leslie White (bài
đã dẫn, x. chú thích 3), phẩm thiên thần này được nói là giữ
cho thế giới trong trật tự. Các vị được biết qua việc đem
công lý của Thiên Chúa vào những hoàn cảnh bất công, tỏ
lòng thương xót của Thiên Chúa với con người và giúp các thiên thần thuộc những cấp dưới ở yên trong hàng ngũ và làm việc có hiệu quả. Tác giả Wesly Baines cũng nói phẩm thiên thần này duy trì trật tự giữa
các thiên thần (trật tự là sức mạnh), đứng đầu các quốc gia, hướng dẫn các nhà
lãnh đạo.
Phụng vụ nhắc đến các Quản thần trong các
Kinh Tiền tụng Mùa Vọng I, Mùa Vọng II, Giáng Sinh I, lễ Hiển Linh, Mùa Chay I,
Mùa Chay IV, vốn nói đến việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người và chịu chết để
đem lại một trật tự mới cho nhân loại. Rồi trong các Kinh Tiền tụng Chúa nhật
Thường niên I (mầu nhiệm Vượt qua), CNTN II (mầu nhiệm cứu độ), và các Kinh Tiền
tụng Thánh Thể I, Đức Mẹ I, Các Thánh Tông đồ I, toàn những tác nhân cho việc
thiết lập trật tự mới này.
Các Dũng
thần được Kinh Thánh nói đến
trong Ep 1,21 và 1Cr 15,24. Nhiều học giả cho rằng các vị giám sát sự chuyển động của các thiên thể để đảm bảo rằng vũ trụ tuân theo
chuyển động tự nhiên. Họ tăng thêm sức mạnh cho những nhân vật tài năng dưới gian trần, luôn sẵn
sàng, dũng cảm thi hành những việc phi thường, khuyến khích con người giữ vững niềm
tin vào Thiên Chúa.
Các Quyền thần được đề cập trong Cl 1,16 và 1Cr 15,24. Các vị được coi là
Thiên thần Chiến binh vì bảo vệ không chỉ vũ trụ mà cả nhân loại chống lại sự dữ. Họ có quyền trên ma quỷ, trong mục đích kiềm chế sức mạnh của chúng. Họ cũng giúp những ai đang vật lộn với các đam mê và tật xấu để trục xuất khỏi lòng mọi sự dữ do kẻ thù của đức tin cổ vũ. Nói tóm, các Quyền thần phụ lực với các Dũng thần giao
tranh với ma quỷ, chiến đấu chống lại các thế lực xấu xa, đi ngược lại với trật
tự quan phòng của Thiên Chúa và tác hại cho công việc cứu rỗi của Người.
Các Dũng thần và Quyền thần được nhắc tới trong
loạt Kinh Tiền tụng Phục sinh (I-V), Thăng Thiên I+II. Các vị ca tụng sức mạnh
chiến thắng tội lỗi và tử thần của Đấng Phục sinh. Người ta cũng gặp lại các
Dũng thần trong Kinh Tiền tụng Thánh Tử đạo I
c- Ba phẩm thiên thần Cấp III gồm Lãnh Thần (Principatus, Principalities), Tổng Thần, Tổng lãnh Thiên thần (Archangeli,
Archangels) và Hộ Thần, Thiên thần Hộ thủ (Angeli Custodi, Guardian Angels)
được coi là những thiên thần làm nên đạo binh
thiên quốc, hoạt động như là sứ giả của Thiên Chúa nơi thế gian, giữa loài người.
Thế giới con người gồm những cá nhân, các cá
nhân ấy hợp thành những cộng đồng, từ nhỏ đến lớn: gia đình, họ tộc, làng xóm,
tỉnh thành, quốc gia, châu lục; hoặc thành những tập thể về mặt giới tính, văn
hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, màu da…. Những cá nhân và những tập thể ấy cần được
cứu chuộc và đều nhận được sự quan tâm (trong tư tưởng, tình cảm) của Thiên
Chúa.
Chính những tư tưởng và tình cảm loại ấy của Thiên Chúa làm nên các thiên thần
trong cấp cuối cùng này.
Lãnh thần được nói đến trong Cl 1,16; Rm 8,38; 1Cr 15,24. Theo nhiều học giả (Wesley Baines), nhiệm vụ của phẩm thiên thần thứ 7 này là thực hiện tấn phong cho các lãnh chúa, giám sát các nhóm người, quan thầy các
định chế, bảo hộ cho các quốc gia trên trái đất và cả Giáo hội. Họ cũng bảo đảm việc
hoàn thành thiên ý giữa các tập thể này.
So với 6 phẩm trên,
các Lãnh thần và hai phẩm dưới giao
thiệp với loài người trực tiếp hơn bằng những cách mà chúng ta có thể hiểu.
Các Tổng thần
(Tổng lãnh Thiên thần) chỉ xuất hiện hai lần
trong Tân Ước (1 Tx 4,16 và Gđ 1,9).
Theo thánh Grê-gô-ri-ô, các vị củng cố loài người trong đức tin, soi chiếu tâm
trí họ với ánh sáng do sự hiểu biết Tin Mừng, mạc khải các mầu nhiệm đạo thánh.
Được nêu tên rõ ràng thì có Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-pha-en. Ba vị được mệnh danh là những
đại sứ giả của trời
cao vì được Thiên Chúa sai loan báo các sứ
điệp quan trọng cho loài
người, giao tiếp và tương tác với nhân loại. Mi-ca-en được
tin là thiên
thần đã truyền linh hứng của Thiên Chúa cho Thánh
Gioan trong sách Khải Huyền và được biết là vị bảo vệ Giáo hội, canh giữ Giáo hội khỏi ma quỷ, trục xuất chúng khỏi Thiên đàng (x.
Kh 12,7-8). Gáp-ri-en trước
tiên được đề cập trong sách Đa-ni-en và giúp Đa-ni-en hoàn thành sứ vụ của ông trên thế gian. Sau đó, Gáp-ri-en
hiện ra với tư tế Da-ca-ri-a và Đức Trinh
Nữ Ma-ri-a, trao sứ điệp lớn
nhất là Thiên Chúa có ý định nhập thể và dựng lều giữa loài người. Ra-pha-en được đề cập trong sách Tô-bi-a, hướng dẫn Tô-bi-a dọc đường,
chữa ông Tô-bit (cha Tô-bi-a)
khỏi mù và cứu bà Sa-ra (vợ Tô-bi-a) khỏi quỷ.
Cuối cùng là các Thiên
thần, hay nói cho chính xác là các Hộ thần, Thiên thần Hộ thủ. Sách GLHTCG số
336 đã trích lời thánh Ba-si-li-ô để dạy rằng: “Bên
cạnh mỗi tín hữu đều có một Thiên thần làm Đấng bảo trợ và mục tử, hướng dẫn họ
đến sự sống.” Không những tín hữu mà là mỗi một con
người. Đây là điều hết sức quen thuộc với chúng ta. Nhưng thiết tưởng không nên
cho rằng có bấy nhiêu con người trên trần gian thì Thiên Chúa dựng nên bấy
nhiêu thiên thần hộ thủ rồi giao cho mỗi vị phụ trách một người. Theo những
điều trình bày ở trên, thiên thần hộ thủ chính là ý tưởng và tình cảm của Thiên
Chúa dành cho mỗi một con người, và ý tưởng lẫn tình cảm này đã biến thành một
ngôi vị, mang tên thiên thần hộ thủ, ngày đêm bên cạnh chúng ta.
Vì trong
phụng vụ, Giáo hội kết
hợp mình với các Thiên thần để tôn thờ Thiên Chúa ba lần thánh, ngợi khen và cảm tạ Người, nên hầu như mọi Kinh Tiền
tụng (trên 50 kinh) đều nhắc đến ba phẩm thiên thần cuối cùng này (có khi gọi
chung là Đạo binh các Thiên thần).
Kết luận
Toàn bộ Kinh Thánh cũng như lịch sử Giáo hội và tiểu
sử một số vị thánh cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa thế giới thiên thần
với thế giới loài người. Những suy tư trên đây cố gắng cho thấy mối liên hệ ấy
chặt chẽ vô cùng, do chỗ các thụ tạo trời cao ấy và các thụ tạo thế trần đều
hợp nhất với nhau trong một thực thể vĩ đại gọi là Giáo hội, hay đúng hơn là
Hội thánh (những gì thánh thì hội lại, như chúng tôi sẽ có dịp trình bày trong
một bài khác), và chính xác hơn nữa là Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Ki-tô.
Nếu đúng như chúng tôi đã trình bày, mọi thiên thần
trong 3 cấp 9 phẩm đều là những ý tưởng và tình cảm của Thiên Chúa, của Đức
Ki-tô Đầu Nhiệm Thể, đối với toàn thể loài người chúng ta và thế giới bao quanh
chúng ta, thì đó là điều khiến chúng ta cảm động và thêm lòng yêu mến Thiên
Chúa, Đấng luôn tìm mọi cách để ở gần chúng ta, ở với chúng ta như Người đã
hứa. Tôn kính mến yêu các thiên thần (đặc biệt thiên thần hộ thủ) cũng là tôn
thờ kính mến Thiên Chúa, vì các vị cũng chỉ là hiện thân (hay hóa thân) các ý
tưởng và tình cảm của Người.
Lễ Các Thiên Thần Hộ Thủ 2-10-2021
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Tổng Giáo phận Huế.
Chẳng hạn Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia, Bài “What Are the 9 Orders of Angels? Are the nine choirs even biblical?”
của Leslie White. https://www.beliefnet.com/inspiration/angels/what-are-the-9-orders-of-angels.aspx. Bài “The
Spheres of the Christian Angelic Hierarchy. How well do you know your
angelic lore?” của Wesley Baines.
https://www. beliefnet.com/ inspiration/angels/the-spheres-of-the-christian-angelic-hierarchy.aspx.
Mỗi người chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều ấy. Tự thâm tâm, ta có những
ý nghĩ, tình cảm đối với từng cá thể hay cả tập thể (người, vật), đối với không
gian nhỏ hay lớn, đối với thời gian ngắn hay dài…
Tác giả:
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
|