Các bài đọc nghe rất
tương phản! Đầu tiên là tiên tri Isaia. Ông gợi lên một thế giới mới, được biến
đổi hoàn toàn. Bằng cách đó, ông củng cố niềm hy vọng của những người đương thời:
Đấng Thiên Sai đang đến! Ngài sẽ rất khác với các vua trần gian:
“Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ
bên ngoài,
cũng không phán quyết
theo lời kẻ khác nói”
(Isaia 11: 3)
Dù nguồn gốc của Đấng
Mêsia sẽ rất yếu ớt và mỏng manh, giống như một nhánh cây mọc ra từ gốc cây bị
đốn hạ:
“Từ gốc tổ Giétsê, sẽ đâm ra một
nhánh nhỏ,
từ cội rễ ấy, sẽ mọc
lên một mầm non”
(Isaia 11: 1),
nhưng Thiên Chúa sẽ làm
điều gì đó vĩ đại cho những nỗi khốn khổ và sự nghèo khó của chúng ta:
“Nhưng xét xử công minh cho người
thấp cổ bé miệng,
và phán quyết vô tư
bênh kẻ nghèo trong xứ sở.
Lời Người nói là cây
roi đánh vào xứ sở,
hơi miệng thở ra giết
chết kẻ gian tà.
Đai thắt ngang lưng là
đức công chính,
giải buộc bên sườn là đức
tín thành”
(Isaia 11: 4-5).
Do đó, Isaia mô tả thế
giới hòa bình hạnh phúc “như trong mơ” sẽ tiếp theo sau việc Đấng Mêsia đến:
“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con,
beo nằm bên dê nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được
nuôi chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt
chúng.
Bò cái kết thân cùng gấu
cái,
con của chúng nằm chung
một chỗ,
sư tử cũng ăn rơm như
bò.
Bé thơ còn đang bú giỡn
chơi bên hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc
tay vào ổ rắn hổ mang.
Sẽ không còn ai tác hại
và tàn phá
trên khắp núi thánh của
Ta,
vì sự hiểu biết Chúa sẽ
tràn ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy
lòng biển”
(Isaia 11: 6-9).
Tất cả việc này sẽ được
Thiên Chúa thực hiện khi mầm non Giétsê xuất hiện và đứng lên:
“Đến ngày đó, cội rễ Giétsê sẽ đứng
lên làm cờ hiệu cho các dân.
Các dân tộc sẽ tìm kiếm
Ngài,
và nơi Ngài ngự sẽ rực
rỡ vinh quang”
(Isaia 11: 10).
Ngược lại, trong Tin Mừng
Mátthêu, Gioan Tẩy Giả đưa ra những lời khó lọt tai thính giả của ông, “nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc
đến chịu phép rửa”, và có lẽ cả chúng ta ngày nay, khi ông nói về Đấng
Thiên Sai sắp đến: “Nòi rắn độc kia, ai
đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?”
(Mt 3:7). Đấng Mêsia được hứa là Chúa Giêsu: “Ngài sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3:11).
Thời điểm nghiêm trọng và cấp bách: “Tay Ngài cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong
sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà
đốt đi” (Mt 11:12). Ngày giờ phải hoán cải đã đến, đã đến lúc thay đổi cách
sống, suy nghĩ và yêu thương: “Tôi, tôi
làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối” (Mt 3: 11).
Cái rìu đã kề vào gốc cây nào không sinh trái tốt: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt
đi và quăng vào lửa” (Mt 3: 10), nhưng quay về với Chúa vẫn chưa muộn, vì sứ
mệnh của Gioan Tẩy giả là “đến rao giảng
trong hoang địa miền Giuđê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”
bởi vì “ông chính là người đã được ngôn sứ
Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức
Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi” (Mt 3: 3).
Isaia nói với những người
cùng thời với ông đang bị lưu đày về lời hứa của Thiên Chúa, là lời loan báo về
kế hoạch vĩ đại của Ngài dành cho nhân loại. Dự án này đã hình thành kể từ khi
Chúa Giêsu đến xác nhận rằng Nước Thiên Chúa đã rất gần. Thiên Chúa đang hoạt động
ở mọi nơi: trong Giáo hội, trong xã hội và trong mỗi người chúng ta, một cách
kín đáo và không phô trương. Đây là cách hành động thông thường của Thiên Chúa,
không áp đặt bằng vũ lực và sợ hãi. Chung quanh chúng ta không thiếu những cảnh
huống bình thường hàng ngày, nhưng lại giống như những chồi non bé nhỏ của cuộc
sống, qua đó chúng ta có thể nhận ra dấu chỉ của “Nước Trời đã đến gần” (Mt 11: 1). Vì vậy, chúng ta đừng tiếp tục sống
trong một thứ “hoang địa miền Giuđê” (Mt
11: 2) với tâm thế khô khan nguội lạnh của những người thờ ơ hững hờ và vô vọng,
không còn biết “tìm kiếm Thiên Chúa, và
nơi Ngài ngự sẽ rực rỡ vinh quang” (Isaia 11: 10). Ngược lại, chúng ta hãy nuôi
dưỡng trong trái tim mình sự khát mong Nước Trời. Đó là luôn luôn hoán cải, chuẩn
bị gặp gỡ và đón nhận Đấng Mêsia, Đấng Cứu Tinh, trong hoàn cảnh sống của mình. Tất cả mọi Kitô hữu đều
đã gặp được Chúa Kitô ngay từ khi lãnh nhận Phép Thánh Tẩy. Nhưng cuộc sống với
vô vàn đa đoan và nhiễu nhương của nó thường xuyên khiến cho chúng ta quên mất
cuộc gặp gỡ này! Do vậy, hoán cải là dọn lòng tìm về với Đấng mà ta đã hơn một
lần gặp gỡ: “dọn sẵn con đường cho Chúa,
sửa lối cho thẳng để Ngài đi” (Mt 3: 3). Hoán cải là chuyện mong tìm lại được
giây phút gặp gỡ ban đầu. Hoán cải là một cuộc hành trình suốt đời, một cuộc
hành trình trở về với yêu thương, với “Thiên
Chúa là Tình yêu” (1 Gioan 4: 16). “Chỉ
khi gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống trong Chúa Kitô, chúng ta mới biết thế nào là sự
sống. Chúng ta không phải là sản phẩm tình cờ và vô nghĩa của quá trình tiến
hóa. Mỗi người chúng ta là kết quả của một ý nghĩ của Chúa. Mỗi chúng ta đều có
ý chí, mỗi chúng ta đều được yêu thương, mỗi chúng ta đều cần thiết. Không có
gì đẹp hơn là ngạc nhiên trước Tin Mừng, trước cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Không
có gì đẹp hơn là được biết Ngài và nói với người khác về tình bạn của chúng ta
với Ngài.” (Bài giảng khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng của ĐTC Bênêđictô XVI, tại Quảng
trường Thánh Phêrô, Chúa nhật 24 tháng 4 năm 2005). Đó là việc lớn của một đời
người. Hôm nay là thời điểm không thể bỏ lỡ để thay đổi.
Và luôn chuẩn bị sẵn
sàng để thay đổi! Thay đổi đòi hỏi sự quyết tâm chủ ý, sáng suốt, sức lực và sự
liên tục trong cuộc sống hàng ngày. Thực hiện các nghi thức tôn giáo như chịu
phép Rửa tội, nhưng theo kiểu rửa tội ở sông Giócđan, là chưa đủ nếu không có
lòng sám hối và hoán cải, thay đổi cuộc sống bê tha trong tội lỗi, và nếu không
để cho Chúa “làm phép rửa cho các anh
trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3:11). Đừng
tự mãn rằng chúng tôi là thành viên của một nhóm các tín hữu đạo đức: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta
đã có tổ phụ Abraham.” Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho
những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (Mt 3:9). Hành động phải thực
hiện trong cuộc sống hàng ngày. Nếu không, các nghi lễ chỉ là những cành khô
không trái và bị đốt cháy, chẳng là gì ngoài rơm rạ vô dụng không sinh ra hạt lúa
mì nào.
Trong Nước Thiên Chúa,
mọi cánh cửa đều rộng mở. Chúa không từ chối một ai. Ngài không phải là người
tiều phu chặt liều bất cứ cây nào. Ngọn lửa của Thiên Chúa không phải là sự hủy
diệt. Đó là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, ngọn lửa của sức sống và sức mạnh.
Mùa Vọng là thời gian
hoán cải của chúng ta, thời gian để thay đổi tâm hồn chúng ta, để có thái độ phục
vụ, tiếp đón người khác và biểu lộ lòng thương xót đối với rất nhiều người bị tổn
thương trong cuộc sống. Vào thời điểm các cộng đoàn tín hữu đầu tiên thành hình,
một số Kitô hữu có gốc gác là Do Thái giáo, những Kitô hữu khác có gốc gác ngoại
giáo, điều này không tạo điều kiện thuận lợi cho sự thống nhất. Do đó, Thánh
Phaolô mời gọi tất cả các Kitô hữu hãy đón nhận nhau và coi nhau là bình đẳng,
bày tỏ sự kiên nhẫn đối với những khác biệt nơi mọi người và đón nhận họ với
tâm tình hiệp nhất: “Xin Thiên Chúa là
nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức
Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh
Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 15: 5-6).
Do đó, sự hoán cải của
chúng ta không chỉ diễn tả bằng lời, mà thực sự là bằng tất cả những cử chỉ cụ
thể này mà chúng ta muốn thực hiện để biểu lộ sự thay đổi đã diễn ra trong
chúng ta: “Vậy, anh em hãy đón nhận nhau,
như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa” (Rm 15: 7).
Hôm nay chúng ta hãy chú
ý đến lời kêu gọi khẩn cấp của Gioan Tẩy giả để rời khỏi con đường sự chết và
chọn con đường sự sống. Đằng sau những lời giận dữ gay gắt của ông, lại là sự dịu
dàng quá dư của Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể chấp nhận để bất cứ người
con nào của mình bị lạc mất, dù họ là dân riêng của Ngài trong Cựu ước, “những người được cắt bì”, hay “các dân ngoại” là chúng ta ngày nay, như
Thánh Phaolô xác quyết: “Thật vậy, tôi
xin quả quyết: Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những
gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa.
Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của
Ngài, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát
cung đàn ca mừng danh thánh Chúa” (Rm 15: 8-9).
Vì vậy, suốt trong Mùa
Vọng này, và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy nhắc lại quyết tâm của chúng ta: “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi” (Mt 3: 3).
Phêrô Phạm Văn Trung.