TẢN MẠN DƯỚI TRĂNG THU
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Tết Trung Thu tại Việt Nam không biết
có tự bao giờ,
không có sử liệu nào nói rõ về gốc
tích của ngày lễ rằm tháng Tám âm lịch
và
cũng
có nhiều ý kiến về nguồn gốc của nó.
Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu (còn được gọi là Tết trông Trăng hay
Tết Đoàn Viên) ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc
Lũ. Có lẽ Tết Trung thu được bắt đầu từ nền
văn minh lúa nước
của đồng bằng
đồng bằng châu thổ sông
Hồng của Việt Nam và Nam Trung Hoa. Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc
tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi”,
người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu.
Các năm gần đây, do thời tiết địa cầu
biến đổi và miền Nam “hai mùa mưa – nắng”, nên thiếu nhi thường phải vui Tết
Trung Thu trong nhà vì những cơn mưa ập xuống bất chợt. Nhưng ở miền Bắc trước
kia, rằm tháng 8 là thời kỳ thời tiết đẹp nhất, trời trong xanh, gió hiu hiu
thổi, không khí mát mẻ, mặt trăng tròn đầy sáng vằng vặc, có thể đọc sách được.
Trẻ con trông trăng để bay bổng cùng chị Hằng Nga, cây đa, chú Cuội,
mong đợi được
ba mẹ
tặng đồ chơi, thường là lồng đèn ông sao,
con tôm, con cá
... rồi bánh nướng, bánh dẻo.
Dưới ánh trăng các em nhỏ rủ nhau xếp thành từng
hàng, rồng rắn nhau rước đèn, múa sư tử.
Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ tụ
nhau lại vừa ngắm trăng vừa phá cỗ.
Người lớn thì
tổ chức bày cỗ,
trông trăng kiếm tìm hy vọng cơm áo năm sau.
Bằng kinh nghiệm dõi theo chu kỳ của tạo hóa, người xưa đoán định mùa vụ qua ánh
trăng đêm Trung Thu: trăng màu vàng trúng mùa tằm tơ, trăng xanh lục báo hiệu
thiên tai, trăng màu cam đất nước thái bình thịnh trị hay “trăng quầng trời hạn,
trăng tán trời mưa”…
Theo trình thuật của sách Sáng
Thế, mặt trăng là hành tinh do Thiên Chúa tạo dựng trên nền trời vào ngày sáng
tạo trời đất thứ tư, để chiếu soi ánh sáng vào ban đêm.
“Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng
lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm
ra các ngôi sao.” (St
1,15). Mặt trời và mặt trăng là hai
hành tinh do Thiên Chúa tạo thành ngay từ thuở sáng tạo vũ trụ trời đất. Cả hai
có hình thể to lớn khác nhau và vị trí làm việc cũng như hoạt động không giống
nhau: mặt trời rực lửa chiếu ánh sáng ban ngày và mặt trăng thanh thoát tỏa sáng
ban đêm.
Từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã
coi trọng mặt trăng và mặt trời,
coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm mặt trăng
chỉ sum họp với mặt trời
mỗi tháng một lần vào cuối tuần trăng. Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng
mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non,
trăng khuyết, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm
tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Ở Châu Âu, thần
mặt trăng “Artemis“ trong thần thoại Hy-lạp và “Lucina“ trong thần thoại Rô-ma
là quan thầy bổn mạng của sinh sản, đồng thời cũng là nữ thần của các trinh nữ.
Trong Kinh thánh, lối suy diễn này được quy chiếu nơi Ðức Mẹ Maria: là
người mẹ sinh con nhưng vẫn còn đồng trinh. Ðức Mẹ Maria được vẽ hay chạm khắc
đứng trên vầng trăng hình lưỡi liềm nói lên sức mạnh do Thiên Chúa tạo
dựng làm nên cùng chiếu tỏa một đời sống mới trọn vẹn tràn đầy. Vì thế, mặt
trăng được đặt dưới chân Đức Mẹ Maria như trong sách Khải
Huyền của Thánh Gioan diễn tả: “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời :
một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên
mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Sách Diễm ca cũng đã ca tụng vẻ đẹp của Mẹ
lộng lẫy như mặt trời và diễm lệ như vầng trăng sáng trong đêm tối: “Kìa bà
nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương,
oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ.” (Dc 6,10).
Thật là một sự trùng hợp tuyệt vời
khi người Việt Nam và người Trung Hoa tổ chức lễ Trung thu vào ngày rằm tháng
Tám âm lịch để ca ngợi vẻ đẹp của vầng trăng, thì người Công giáo cũng mừng kính
lễ Sinh nhật Đức Trinh nữ Maria. Ngay trong
ca nhập lễ, Giáo hội đã mời gọi: “chúng ta
hãy hân hoan với tất cả tâm hồn, mừng kính việc sinh ra của Đức Trinh Nữ Maria,
từ nơi Người đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
Câu xướng trước Phúc Âm cũng ca tụng: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, Mẹ diễm
phúc, Mẹ xứng đáng mọi lời ca tụng; vì từ nơi Mẹ đã xuất hiện Mặt Trời Công
Chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!”.
Mặt Trời Công Chính trong cung lòng Mẹ
là Ánh Sáng
thật,
Ánh Sáng bởi
Ánh Sáng, tức là phản ánh hình ảnh của Chúa Cha là cội nguồn ánh sáng.
Ánh sáng
Chân Lý
đó được
Mẹ Maria là một thụ
tạo hoàn hảo của Thiên Chúa đón nhận
để rồi Mẹ
thông truyền cho thế gian.
Vì thế
Mẹ đã được ví như một vầng trăng thanh
với
ánh sáng
dịu dàng, thanh thoát nối
tiếp mặt trời
chiếu sáng ban đêm.
Có thể nói: Chúa Giêsu càng tỏ hiện ra, vai trò
của Đức Mẹ càng mờ nhạt đi. Ánh sáng Mặt Trời của Chúa Giêsu Kitô càng chiếu tỏ
hiện, Vầng Trăng Maria Mẹ Thiên Chúa càng lùi vào bên trong, biến dần sang vầng
trăng khuyết lưỡi liềm.
Dưới vầng trăng thu tỏa sáng ánh quang huyền ảo của Mẹ Maria,
chúng ta cùng cầu xin Chúa ban phúc lành cho con em chúng ta và trẻ em toàn thế
giới như lời Chúa trong Thánh lễ tết Trung Thu: "Cứ để trẻ em đến với Thầy,
đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng.” (Mc
10,14). Xin Chúa ban cho các em luôn biết tin tưởng phó thác, vâng lời, đơn
sơ và thật thà như con trẻ Giêsu trong gia đình Nazareth xưa.
Xin Chúa ban cho chúng ta cũng học được những đức tính đáng
yêu giống như con trẻ để được cùng vào Nước Thiên Chúa và được hưởng những đêm
trăng thu huyền nhiệm cùng Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh là những Đấng đã
luôn sống đẹp lòng Chúa. Xin cho chúng ta luôn biết chung tay xây dựng gia đình
thành một cộng đoàn cầu nguyện, sống tình yêu chung thủy và bảo vệ sự sống trong
năm Đồng hành cùng các gia đình trẻ.
Tác giả:
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
|