CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN. B
Trong Tin Mừng, có lần Chúa mời gọi: Hãy nên thánh như Cha trên trời là Đấng
Thánh. Ơn gọi nên thánh là ơn gọi dành cho từng người không trừ ai. Dù vậy không
ai được quên rằng, cuộc sống hôm nay có một giá trị vĩnh cửu. Vì nếu tội lỗi hôm
nay sẽ theo ta đi vào vĩnh cửu thì giá trị của việc lành cũng đưa ta tiến về
hạnh phúc vĩnh cửu.
I. HÃY PHỤC VỤ.
Ơn gọi nên thánh là ơn gọi bao hàm lời răn dạy hãy tránh xa sự xấu, và thực hiện
những việc lành, để ngày càng tiến đến sự thánh thiện hoàn hảo. Một trong rất
nhiều ơn lành mà hôm nay Chúa mời gọi, đó là sự phục vụ:
“Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.
Khi hạ mình làm đầy tớ, nghĩa là hạ mình để phục vụ với tất cả lòng mến, với hết
khả năng của bản thân, chính là lúc ta tiến đến sự thánh thánh thiện hoàn hảo
như Chúa mời gọi.
Có hai lý do cho biết phục vụ sẽ đưa ta đạt đến đỉnh cao của sự nên thánh:
Lý do 1: Dựa trên Chính lời dạy của Chúa Giêsu: Ai phục vụ, nhất là phục vụ
những người mang thân phận nhỏ bé nhất, người ấy thật vinh dự, thật cao cả vì
được phục vụ chính Chúa Giêsu, qua đó cũng sẽ là người phục vụ chính Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết điều đó:
“Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận
chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là
đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Lý do 2: Khi sống đời phục vụ, ta nên giống Chúa Kitô. Người xuống thế làm
người, không ngoài một lý do nào khác, nhưng là:
“Đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá
chuộc cho muôn người”.
Vì thế, cả cuộc đời Chúa Giêsu: sống, chết, sống lại chỉ nhằm một lý do quan
trọng: Chuộc lại cho ta ơn thánh thiện hoàn hảo mà Thiên Chúa đã tặng ban từ
nguyên khởi.
Chúa đã dạy và đã nêu gương để xây dựng thành một bằng chứng hùng hồn, một bài
học lớn lao và quý giá. Vì thế, đến lượt mình, ta cũng phải học lấy tinh thầy
khiêm nhu, yêu thương và phục vụ như Người.
II. NHƯ MẸ TÊRÊSA THÀNH CALCUTTA.
Có một tấm gương lừng danh trong thời đại chúng ta, mà khi nhắc tới, hiếm có
người nào không biết, và nhiều người ngưỡng mộ, yêu mến, nể phục. Tôi muốn nói
đến tấm gương của Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Mẹ đã sống trọn vẹn lời mời gọi của
chúa Kitô, vì thế, đến lúc kết thúc cuộc đời, Mẹ đã có thể đến trước Thánh Nhan
bằng một niềm hạnh phúc tuyệt diệu, vì cả một đời, Mẹ đã nên giống Chúa Kitô
trong tình yêu hiến thân và phục vụ.
Mẹ Têrêsa là người gốc Albani, sinh ngày 26.8.1910, tên thật là Agnes Gonxha
Bojaxhiu. Lên 18 tuổi, Mẹ xin gia nhập dòng Loreto và lấy tên thánh nữ Têrêsa
thành Lisieux làm tên gọi cho đời hiến dâng của mình. Chẳng bao lâu sau khi gia
nhập dòng tu, Mẹ được sai đến Ấn độ truyền giáo. Từ đây đánh dấu một bước ngoặc
lớn trong cuộc đời Mẹ Têrêsa: Mẹ ao ước thành lập dòng chuyên phục vụ người
nghèo, người bất hạnh. Từ ao ước ấy, Mẹ trở thành vị sáng lập dòng Thừa sai Bác
ái…
Sau khi được bề trên giáo phận và chánh quyền địa phương chấp thuận, năm 1952,
Mẹ Têrêsa cho sửa một ngôi đền
Ấn giáo
bỏ hoang thành nơi chăm sóc người hấp hối và một trại điều dưỡng miễn phí cho
người nghèo. Hầu hết các bệnh nhân nghèo đến nỗi sống kiếp thấp hèn, thậm chí
sống như những con vật. Mẹ đi tìm, đi nhặt họ và đưa về đây để họ được chăm sóc,
được yêu thương, được trọng vọng, được chết trong nhân phẩm, được chôn táng theo
niềm tin tôn giáo của chính họ… Như Mẹ đã từng nói: Họ có “một cái chết đẹp”,
một cái chết như những thiên thần.
Tiếp theo, Mẹ mở một ngôi nhà cho người mắc bệnh phong có tên là Thành phố Hòa
Bình. Từ đó, dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ cũng thành lập một số cơ sở y tế mở
rộng trên khắp Calcutta, cung cấp thuốc men, thực phẩm…
Năm
1955,
Mẹ xây dựng cơ sở đón tiếp trẻ mồ côi và thanh thiếu niên vô gia cư, đặt tên là
Nhà Trái tim Vô nhiễm. Đến thập niên 1960, dòng Thừa sai Bác ái thành lập nhiều
nhà điều dưỡng, trại mồ côi, trại phong trên khắp Ấn độ.
Chẳng bao lâu, hoạt động nhân đạo của Mẹ Têrêsa nói riêng và của dòng Thừa sai
Bác ái nói chung, bắt đầu vượt biên giới Ấn độ, hướng ra thế giới. Ngôi nhà đầu
tiên ngoài Ấn độ được thành lập ở Venezuela năm 1965.
Chỉ tính đến năm 1966, Mẹ Têrêsa điều hành 517 cơ sở từ thiện trên hơn 100 quốc
gia. Đến năm 1968, Mẹ lập nhiều cơ sở khác tại La mã, Tanzania, Áo… Thập niên
1970, nhà dòng đã có thêm nhiều nhà và tổ chức từ thiện khác trên nhiều quốc gia
châu Á, châu Âu, châu Phi và Hoa kỳ.
Năm 1982, khi cuộc bao vây Beirut lên đến đỉnh điểm, Mẹ Têrêsa, sau khi đứng ra
đàm phán ngừng bắn thành công giữa quân đội
Israel
và du kích
Palestine,
được nhân viên Hồng Thập tự hộ tống, đã băng qua trận địa đến một bệnh viện nhi
đổ nát giải cứu 37 trẻ em mắc kẹt cách hết sức anh dũng.
Cuối thập niên 1980, Đông Âu bắt đầu mở cửa, Mẹ Têrêsa tiến hành hàng chục đề án
nhân đạo tại các quốc gia này. Mẹ nhanh chóng đến Êthiôpi cứu những người bị nạn
đói hoành hành. Mẹ đến Chernobyl giúp những nạn nhân phóng xạ, đến Armenia cứu
vớt những nạn nhân động đất. Năm 1991, lần đầu tiên, Mẹ về quê hương Albani, mở
trụ sở Dòng Thừa sai Bác ái ở Tirana.
Trải qua nhiều năm, Dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa, từ thuở phôi thai, chỉ
có 12 nhân sự, đã phát triển mạnh, phục vụ “những người nghèo nhất của dân nghèo”
(cách nói của Mẹ Têrêsa).
Tính đến thời điểm Mẹ Têrêsa từ trần, nhà dòng có hơn 4.000 nữ tu, hơn 100.000
người tình nguyện và 400 tu sĩ các dòng khác làm cộng tác viên, làm thành một
mạng lưới trợ giúp nhân đạo, điều hành 610 cơ sở từ thiện tại 123 quốc gia, với
đầy đủ các mảng nhân đạo: nhà tế bần, nhà cho người HIV/AIDS, người bị phong, bị
lao, bệnh viện, các nhà bếp cung cấp thức ăn, các chương trình tư vấn gia đình
và trẻ em, trại dưỡng lão, trại mồ côi, trường học…
Năm 1983, trong lần yết kiến thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Mẹ Têrêsa bất ngờ
bị đau tim. Sau cơn đau tim lần thứ hai năm 1989, Mẹ được đặt máy trợ tim nhân
tạo. Năm 1991, đang lúc viếng thăm và làm việc tại Mêxicô, Mẹ mắc bệnh cúm,
khiến bệnh tim trở nặng. Từ đó, Mẹ muốn từ nhiệm, nhưng các nữ tu, trong cuộc bỏ
phiếu kín, đã thể hiện lòng yêu mến và mong muốn Mẹ tiếp tục vị trí lãnh đạo. Mẹ
Têrêsa đã không thể từ chối.
Tháng 4 năm 1996, Mẹ bị té và gãy xương đòn, phải phẫu thuật tim một lần nữa.
Sức khỏe Mẹ Têrêsa suy giảm trầm trọng. Ngày 13.3.1997,
Mẹ Teresa từ chức lãnh đạo dòng tu. Chưa đầy năm tháng sau, ngày 5.9.1997, Mẹ
Têrêsa đã an nghỉ trong Chúa.
Cuộc đời hoạt động của Mẹ Têrêsa không thiếu những lần bị những người ganh tỵ,
thù ghét cá nhân Mẹ, cũng như những người chống báng Hội Thánh chỉ trích. Nhất
là nhiều kẻ muốn đi ngược giáo huấn của Hội Thánh, ra sức tấn công lập trường
cứng rắn của Mẹ về việc chống phá thai và li dị. Nhưng Mẹ không hề nao núng,
không hề khiếp sợ miệng lưỡi thế gian. Mẹ luôn nhắc nhở những người cộng tác với
mình: “Người ta nói gì cũng mặc, bạn chỉ cần cười và tiếp tục công việc của mình”…
III. VÀ NÊN THÁNH.
Chính Chúa Giêsu là tấm gương, là lẽ sống, là sức mạnh cho những hoạt động cúi
mình trên những thân phận con người, không mệt mỏi của Mẹ Têrêsa. Chúa đã bước
vào vinh quang vĩnh cửu. Mẹ Têrêsa, một khi đã đi con đường khiêm tốn và tự hạ
của Chúa, đã được Chúa đưa tới vinh quang tột đỉnh ấy.
Mẹ Têrêsa chỉ là một trong rất nhiều bằng chứng về sự thánh thiện như Đức Maria
và các thánh. Các ngài là những tấm gương sáng để chúng ta noi theo.
Để đạt tới sự thánh thiện như các ngài, chúng ta hãy khắc sâu Lời Chúa dạy trong
hồn mình, để mỗi ngày mỗi sống lời dạy ấy tốt hơn, xứng đáng hơn:
“Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.
Ước gì lời dạy và tấm gương yêu thương, phục vụ của Chúa Kitô thấm đẫm tâm hồn
ta, giống như Mẹ Têrêsa, và các thánh, để nhờ đó, ta luôn ý thức sứ mạng Chúa
trao là phục vụ anh chị em, trong cuộc sống đời thường và trong chức vụ mà mình
đang mang, đang gánh như: là một người cha, người mẹ, là bổn phận làm con, bổn
phận đào tạo con người, hoặc mình là người buôn bán, làm thuê độ nhật, hay trong
vai trò của người nghiên cứu, học tập…
Nhờ ý thức như thế, ta sẽ ra sức chu toàn bằng tất cả tài năng, sức lực, suy
nghĩ, hành động của bản thân. Vì khi chu toàn ơn gọi Chúa trao là lúc ta nên
thánh trong chính ơn gọi của mình.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH