CN V MÙA CHAY NĂM B
Với Chúa nhật V mùa Chay, chúng ta bước vào thời gian cuối cùng của mùa Chay, và
đang càng lúc càng tiến đến gần đỉnh cao của mầu nhiệm Vượt Qua. Trên đỉnh cao
đó, mầu nhiệm Vượt Qua loan báo một tình yêu lớn đến vô cùng của Thiên Chúa.
I. THIÊN CHÚA HIẾN MÌNH VÌ YÊU
Thiên Chúa yêu đến nỗi không dung thứ chính bản thân mình, để thực hiện một cuộc
tìm kiếm hết sức ngoạn mục, nhằm vươn tới bằng được mỗi một con người, để cứu
vớt, làm cho họ sống và sống mãi.
Cuộc tìm kiếm ngoạn mục này, Thiên Chúa đã thực hiện quá hoàn hảo trong sự chết
và sống lại của Chúa Kitô: Thiên Chúa đã tự hiến chính mình nơi Chúa Kitô, làm
cho nỗi đau khổ nhục nhằn mà Chúa Kitô hằng chấp nhận, trở thành lời chứng của
tình yêu lớn đến vô cùng, lớn đến nỗi không còn có thể có cách diễn tả lời yêu
thương nào lớn hơn.
Bởi vậy, ngoài những phương tiện chay tịnh mà Hội Thánh đề nghị, sự chay tịnh
cần thiết không kém phần quan trọng của chúng ta trong những ngày này, là ngước
nhìn thánh giá Chúa Kitô, mà lắng chìm tâm hồn, suy niệm sự tự hiến tế cao cả
của Người, để nơi đó, ta lớn lên không ngừng trong lòng yêu mến của mình đối với
Thiên Chúa, Đấng yêu thương ta. Người chính là
“hạt lúa đã gieo vào lòng đất”.
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Cũng thế, nhìn vào góc cạnh cứu chuộc, nếu Chúa Kitô không chấp nhận hiến tế đời
mình, chúng ta chẳng nhận được hiệu quả nào của ơn cứu chuộc. Chính trong sự tự
hiến tế lớn lao của Người, Chúa Kitô trao cho ta sự sống của chính Thiên Chúa.
Và như thế, cái chết khổ hình của Chúa là bằng chứng ơn cứu chuộc chúng ta.
Nhưng trong mầu nhiệm thánh giá, không chỉ một mình Chúa Kitô tự hiến, mà còn là
chính Thiên Chúa tự hiến cho ta. Bởi nơi thánh giá Chúa Kitô, Chúa Cha tự hiến
mình khi trao ban chính Người Con Duy Nhất, sinh ra tự lòng mình. Chúa Con tự
hiến mình, khi chấp nhận hóa thân làm người, chia sẻ đến cùng cái kiếp người
mong manh của loài người, và chết đau thương như một tử tội để trao ban sự sống
cho loài người.
Hiểu về mầu nhiệm tự hiến của Thiên Chúa như thế, ta cũng có thể áp dụng hình
ảnh hạt lúa được gieo cho Thiên Chúa. Vì chính Người đã hiến mình cho ta trước.
Sáng kiến cứu độ phát xuất từ nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cúi mình để nâng ta
lên trong sự tự hiến ấy. Vì thế, Thiên Chúa là hạt lúa nguồn, hạt lúa mẹ đã hiến
mình cho ta, đã chết lặng trong thương đau tột cùng vì ta trong cái chết đau đớn
của Chúa Kitô, Con Một của Người.
Cũng chính trong sự chết đau đớn của Chúa Kitô, Thiên Chúa tiếp tục mời gọi
chúng ta hãy tự hiến tế chính mình như Người, để nên hạt lúa gieo vào lòng đời
cho anh chị em của ta.
Sự dâng hiến của Thiên Chúa và của Chúa Kitô chính là động lực thúc đẩy ta sống
cho anh chị em của mình. Sự tự hiến của Thiên Chúa và của Chúa Kitô đòi ta chui
ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho
mình để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lịch sử của Hội Thánh hai ngàn năm qua đã ghi dấu đức tin của rất nhiều anh chị
em hiến thân cho thế giới, cho Hội Thánh và cho Thiên Chúa. Những anh chị em đó
đã sống chính lời dạy của Chúa Kitô:
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Vì thế, họ đã thực sự nên hạt lúa mục nát đi, để lại cho đời, cho từng người qua
mọi thế hệ bằng chứng của sự chết đi và sinh nhiều kết quả.
Tôi đã đọc đâu đó rất nhiều những tấm gương lớn như thế, những tấm mang hình ảnh
hạt lúa được gieo, được chết đi và trổ sinh nhiều kết quả đáng quý.
II. CHỨNG TÁ VỀ MỘT HẠT LÚA CHẾT TRỔ SINH KẾT QUẢ
Chứng tá ấy xảy ra vào một ngày cuối năm 1965. Trên một chuyến máy bay đưa các
Giám Mục người Mỹ trở về từ Ý sau khi đã dự Công Đồng Vatican 2, có một nữ tiếp
viên hàng không rất xinh đẹp, tận tình và nhã nhặn phục vụ hành khách.
Thế nhưng, trong suốt hành trình, cô tiếp viên hàng không trẻ đẹp này rất bực
bội và rất mất tự nhiên vì có một người đàng ông, xem ra thiếu đứng đắn, cứ liên
tục đảo đôi mắt chăm chú nhìn mình. Càng đáng bất bình hơn, khi đó là một người
đàn ông đã lớn tuổi. Cô lại càng khó chịu hơn, vì ngay sau đó cô được biết,
người đàn ông ấy chính là đức cha Fullton Sheen, Tổng Giám Mục thành New York,
một con người nổi tiếng về khoa ăn nói, giảng dạy và đạo đức. Ngài là một Giám
Mục tông đồ lừng danh nước Mỹ. Thật là quái gỡ không thể tưởng tượng! Một kẻ xem
ra thiếu tư cách ấy, lại là con người của thành công, của sự nổi tiếng sao? Cô
không hiểu nổi và thầm chê trách coi khinh vị Giám Mục già kia.
Đến lúc chiếc phi cơ hạ cánh, kỳ quái thật, vị Giám Mục già bị coi là “thiếu
đứng đắn” kia lại không xuống cùng lúc với các hành khách. Không hiểu ngài có
toan tính gì mà lại đợi mọi người trên máy bay xuống hết, chỉ còn mỗi mình ngài
là vị khách xuống sau cùng. Đã vậy, khi đến cầu thang máy bay, Đức Cha Fulton
Sheen còn ghé sát mặt mình vào tai cô tiếp viên hàng không nói thầm thì những
lời gì đó, ngoài cô gái, chẳng ai có thể nghe thấy…
Câu chuyện đến đó, tưởng chừng kết thúc. Những tưởng sự khó chịu của cô gái tiếp
viên hàng không rồi cũng trôi qua, cái nhìn tưởng như khiếm nhã của vị Giám Mục
già rồi cũng chẳng còn ai nhớ, có chăng một ánh mắt dù khiếm nhã (theo như ý
nghĩ của cô gái), thì cũng chỉ là một ánh mắt thoáng qua như bao nhiêu ánh mắt
mà cô gái bắt gặp trong đời mình?
Không phải thế. Mọi sự không trôi đi, không mất. Bởi vào một buổi trưa, Đức Cha
Futon Sheen nghe tiếng gõ cửa, và sau đó là sự bất ngờ của Đức Cha khi ngài mở
cửa. Trước mặt ngài là cô gái tiếp viên hàng không trẻ tuổi có sắc đẹp mặn mà
trên chuyến bay hôm nào, đã từng có ánh mắt thiếu thiện cảm với ngài.
Cô gái lên tiếng chào Đức Cha và hỏi:
“Thưa Đức Cha, Đức Cha có nhớ con không?”.
Đức Cha Fulton Sheen từ tốn trả lời:
“Cha nhớ chứ. Con chính là cô gái tiếp viên hàng không trên chiếc máy bay đưa
chúng tôi trở về từ Công Đồng Vatican II”.
Cô gái nói tiếp:
“Vậy Đức Cha có nhớ Đức Cha đã nói nhỏ vào tai con điều gì không?”.
Đức Cha trả lời:
“Nhớ! Cha nhớ, Cha đã khen con đẹp lắm. Và cha hỏi con rằng, có bao giờ con đã
cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho con sắc đẹp tuyệt vời kia chưa?”.
Cô gái sung sướng nói tiếp:
“Kính thưa Đức Cha, điều Đức Cha nói đã làm con băn khoăn nhiều. Cũng chính vì
điều đó mà hôm nay con đến gặp Đức Cha. Vậy, theo ý Đức Cha, con phải làm gì để
tạ ơn Chúa?”.
Hơi bất ngờ, Đức Cha Fulton Sheen lặng người suy nghĩ một chút. Sau đó Đức Cha
dẫn cô gái tới trước tấm bảng đồ thế giới treo trên tường, vẫn giọng nói ôn tồn,
Đức Cha hỏi:
“Có bao giờ con nghe nói tới một trại phong cùi nào ở Việt Nam mang tên là trại
phong Di Linh chưa?”.
Cô gái ngước đôi mắt xanh như dọ hỏi:
“Kính thưa Đức Cha, có lần con đã đọc được trên báo. Con cũng đã được nghe ai đó
kể một vài chuyện về trại cùi Di Linh”.
Đức Cha dõi mắt nhìn vào khoảng xa xăm trước mặt:
“Này con, cách đây chưa lâu, cha nghe nói Đức Giám mục giáo phận Sài Gòn tên là
Gioan Cassen đã từ chức Giám Mục Sài Gòn để đến phục vụ anh chị em trại phong Di
Linh. Con có muốn cảm tạ Chúa bằng cách thử một lần đến trại phong Di Linh, gặp
Đức Giám Mục Sài Gòn và ở lại với anh chị em bệnh phong khoảng sáu tháng không?”.
Quá bất ngờ trước lời đề nghị của Đức Giám Mục thành New York, cô gái không thốt
lên một lời, lặng lẽ cúi chào Đức Cha rồi rút lui trong sự bàng hoàng của chính
nội tâm của cô…
Một lần nữa, người ta cứ tưởng rằng câu chuyện thật nhẹ nhàng, nhưng cũng thật
mãnh liệt của Đức Cha Fulton Sheen và cô tiếp viên hàng không kia đã chấm dứt.
Nhưng thật lạ lùng, chỉ bằng ấy lời đề nghị nhẹ nhàng, nhưng dứt khoát của Đức
Cha, đã làm thay đổi hoàng toàn cuộc đời của cô tiếp viên hàng không xinh đẹp.
Những tháng đầu năm 1966, người ta đọc thấy một bảng tin đáng khâm phục trên các
phương tiện truyền thông của Sài Gon và của Việt Nam nói chung: Một nữ tiếp viên
hàng không rất trẻ, rất đẹp của một hãng hàng không Hoa Kỳ đã xin nghĩ nghề làm
tiếp viên hàng không để đến trại phong Di Linh của Việt Nam, tình nguyện chăm
sóc các bệnh nhân phong.
Thật đẹp, đẹp làm sao. Chỉ chừng ấy lời của một vị Giám Mục khả kính thôi, tâm
hồn quả cảm của một cô gái lãng du thích phiêu bồng khi chọn cho mình nghề tiếp
viên, rày đây mai đó, đã có thể chấp nhận trút bỏ tất cả tương lai đẹp như chính
cái vẻ đẹp của cô để sống, không phải sáu tháng, nhưng là suốt đời cho một lý
tưởng cũng đẹp không kém:
TẠ ƠN THIÊN CHÚA.
Chỉ chừng ấy thôi, lời của một vị Giám Mục khả kính đã biến một cô chiêu đãi
viên hàng không xinh đẹp thành một nữ tu. Bởi chính cô, sau một thời gian phục
vụ anh chị em phong, đã tự nguyện khoác lấy chiếc áo nữ tu trong hội dòng Nữ Tử
Bác Ái Vinh Sơn Việt Nam.
Từ nay, bước vào đời sống tu trì, Người Nữ Tu, cô gái xinh đẹp của chúng ta,
hoàn toàn trút bỏ mọi vướng bận của đời thường để yên tâm sống lý trưởng cảm tạ
Chúa bằng việc phục vụ anh chị em phong của mình. Người nữ tu đã từng làm tiếp
viên hàng không ấy, đẹp quá. Chị đẹp, không chỉ là một sắc đẹp thân xác, mà
chính là một vẻ đẹp lộng lẫy của tâm hồn. Người Nữ Tu ấy, không ai khác hơn,
nhưng đó chính là Chị Louise Bannet.
Chị Louise Bannet đã tình nguyện ở lại trại phong Di Linh suốt đời. Nhưng biến
cố của năm 1975 gây ra nhiều biến động, khiến Chị không thể tiếp tục ý nguyện
của mình. Sau mười năm phục vụ người phong, Chị đã phải lên đường về nước. Một
thời gian sau, Chị lại xin nhà dòng cho đi phục vụ bệnh nhân phong ở Tahiti.
Năm 1982, sau nhiều ngày bị căn bệnh ung thư quái ác hoành hành, Chị Louise
Bannet đã qua đời giữa sự tiếc thương vô cùng của cộng đoàn anh chị em phong tại
Tahiti. Và trong tình liên đới, cũng như trong lòng biết ơn của mình, cũng là
chính lòng tiếc thương của các bệnh nhân phong Việt Nam nói chung và tất cả
những ai sống tại trại phong Di Linh nói riêng.
III. TA HỌC BÀI HỌC VỀ HẠT LÚA CHẾT SINH KẾT QUẢ
Chúng ta không dễ gì chấp nhận chết đi, không dễ gì chấp nhận đánh mất mình vì
anh chị em. Bởi tính toán riêng tư của chính mình, làm cho ta khó lòng tự hiến.
Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đúng là hạt lúa chết để sinh
nhiều bông hạt, nhưng ích lợi gì cho tôi khi chính tôi bị tan rã? Quá quay về
với bản thân, ta chỉ là một hạt lúa trơ trọi.
Nhưng tiếc thay, lúc giữ được tất cả, tôi lại thấy mình mất tất cả. Cái mất lớn
nhất là mất hết ý nghĩa sống. Từ đó, tôi như con thú chỉ biết chăm sóc bộ lông
của mình. Đến lúc phải trải qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra:
chỉ có một cách giữ chặt, và giữ được tất cả là buông ra và trao hiến. Tôi đã
bắt đầu được khi bắt đầu chấp nhận mất.
Thiên Chúa đã đi bước trước để tự hiến mình cho ta. Chúa Kitô tự hiến chính mình
khi nhập thể, làm người, sống, nhất là khi Người chấp nhận cái chết ô nhục và
sống lại, được vinh thăng trên trời… Các thánh của Chúa, nhiều chứng nhân âm
thầm hoặc công khai trong suốt chiều dài của lịch sử Hội Thánh, mà Chị Louise
Bannet chỉ là một tấm gương trong vô vàn những tấm gương… là những bằng chứng
sống động cho ta học lấy bài học tự hiến chính mình cho anh chị em xung quanh.
Chúng ta cần ghi khắc sâu đậm Lời Chúa hôm nay để sống cho Chúa và cho nhau:
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Cùng với Lời Chúa, chúng ta tiếp tục cất cao kinh Hòa Bình, để lời kinh rất quen
thuộc này, tiếp tục hướng dẫn chúng ta hiểu và mỗi một ngày càng hiểu nhiều hơn
giá trị của sự tự hiến.
“Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp
lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi, là
khi vui sống muôn đời…”
Lm. VŨ XUÂN HẠNH