CN 3 TN NĂM B
Thiên Chúa và Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta ra đi làm tông đồ để loan
báo tin mừng cứu độ cho mọi người. Xưa các tông đồ nhanh chóng đáp trả tiếng
Chúa và thực thi ơn gọi của mình đầy quả cảm. Nay, theo chân các tông đồ, làm
tông đồ mới của thời đại mới, chúng ta không được dừng bước trên mọi nẻo của đời
sống. Loan báo Tin Mừng của chúa là danh dự, là lẽ sống của người tông đồ.
Từng người tín hữu Kitô hãy có cùng một thao thức, một sự thúc bách liên lỉ như
thánh Phaolô trọn đời mình:
“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”
(1Cr 9, 16). Từng người tín hữu Kitô hãy luôn ấp ủ niềm vui Tin Mừng, để có sống
thì sống cho Tin Mừng; có chết cũng là chết cho Tin Mừng.
1. CÁC TÔNG ĐỒ MAU MẮN ĐÁP TRẢ ƠN GỌI.
“Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người
ta”.
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết, Chúa Giêsu tuyển chọn bốn tông đồ đầu
tiên đi theo Chúa là: Simon Phêrô; Anrê; Giacôbê; Gioan.
Bốn tông đồ này là hai cặp anh em ruột: thánh Anrê là anh thánh Phêrô;
thánh Giacôbê là anh thánh Gioan. Đây là bước khởi đầu cho việc thực
hiện đường lối cứu độ của Chúa và thiết lập Hội Thánh.
Thái độ của các môn đệ đầu tiên là thái độ đáng để chúng ta học
tập: Sau khi nghe Chúa mời gọi, ngay lập tức, họ bỏ mọi sự mà theo
Chúa. Thánh Mathêô ghi nhận: Lập tức các ông bỏ chài lưới, bỏ thuyền,
bỏ người thân của mình mà ra đi theo tiếng Chúa gọi (x. Mt 1, 18.20).
Để nhấn mạnh trách nhiệm của người được tuyển chọn, Chúa Giêsu xác
định ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên với các ông: “Ta
sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người ta”.
Mau mắn đáp trả lời Chúa gọi là thái độ luôn luôn cần thiết của từng người tông
đồ của Chúa. Mau mắn đáp trả ơn gọi của Chúa là đi theo Chúa, tự để mình gắn bó
với Chúa, thuộc về Chúa, ở với Chúa.
Sự mau mắn đáp trả còn cho biết các môn đệ của Chúa vui mừng, hân hoan, hãnh
diện vì được Chúa gọi. Họ nôn nóng muốn chia sẽ ngay cuộc sống của Chúa, tâm tư
của Chúa, công việc của Chúa, niềm vui và nỗi buồn của Chúa…
Một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Từ ngày được Chúa gọi, khám phá
tình yêu của Chúa, cuộc đời các tông đồ đã rẽ sang hướng khác: vinh phúc hơn,
nhưng cũng khó khăn hơn, quan trọng hơn, đòi hy sinh nhiều hơn. Bởi từ nay, các
tông đồ sẽ “lưới người”, chứ không chỉ “lưới cá”.
Trong ánh sáng tình yêu mà các tông đồ nhận từ nơi Chúa, đã làm các ngài thay
đổi dần cuộc đời mình. Một khi theo và yêu Chúa rồi, các tông đồ không được phép
dừng lại, như chỉ có việc ở bên Chúa là đỉnh điểm.
Ngay sau việc theo Chúa, các tông đồ có trách nhiệm thông truyền sự sống của
Chúa, thông truyền chính Chúa cho mọi người. Các tông đồ phải nhanh chóng thực
hiện sứ mạng truyền giáo do ơn gọi theo Chúa đòi hỏi. Với việc ra đi truyền
giáo, Chúa “nâng cấp”, để các tông đồ từ những người “lưới cá” trở nên nhửng
người “lưới người”.
2. CHÚNG TA THEO CHÂN CÁC TÔNG ĐỒ.
Một hôm được nghỉ phép về nhà, viên sĩ quan trẻ của quân đội Pháp là Charles de
Foucauld miên man nói cho những người thân về những thám hiểm của mình ở Maroc.
Cháu của anh, cô bé chưa đủ 10 tuổi, sau một hồi chăm chú nghe anh kể, bất ngờ
hỏi: “Cậu làm được nhiều việc vĩ đại... Cậu đã làm được gì cho Thiên Chúa
chưa?”.
Câu hỏi hồn nhiên của cô cháu gái đã đi theo Charles de Foucauld suốt thời gian
dài sau đó. Dù chỉ là câu hỏi của một đứa trẻ, nhưng đã đủ sức lay động động
lương tâm của một sĩ quan đã từng vào sinh ra tử như anh.
“Anh đã làm gì cho Thiên Chúa?”. Charles moi hết trí nhớ, moi hết lương tâm để
tìm bằng được câu trả lời. Nhưng anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh không
làm gì cho Thiên Chúa. Suốt thời gian qua, anh đã dùng sức trẻ chỉ để phí phạm
tất cả thời giờ cho cuộc sống vô độ, cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những
danh vọng phù phiếm...
Mắt anh bỗng mở ra. Anh bắt đầu thấy con người trần trụi, khốn khổ, nghèo hèn
của mình. Sau cùng, anh tìm đến một vị linh mục. Nơi tòa giải tội, Charles de
Foucauld đã chân thành thú nhận tội lỗi của mình.
Để quyết tâm làm một điều gì cho Thiên Chúa, Charles de Foucauld đã hành hương
Đất Thánh để sống chính cuộc đời nhập thể và nhập thế của Chúa Kitô. Từ đây, anh
thực tập sống nhiệm nhặt. Anh xin nhập dòng Xitô khổ tu. Vài năm sau, thầy
Charles còn hành hương Rôma để cầu nguyện và ăn năn tội.
Thầy còn hạ mình đến nỗi xin vào làm vườn cho Dòng Clarisses, như một người phục
vụ âm thầm. Nhưng trên hết tất cả những việc trên, thầy đã cầu nguyện đêm ngày
để được sống gần Chúa, để được Chúa biết đổi và thánh hóa.
Thầy Charles de Foucauld được thụ phong linh mục, tại giáo phận Viviers, ngày
9.6.1901. Sau khi lãnh chức linh mục, Cha Charles khởi sự truyền giáo. Đây là
thời gian đầy gian lao và nguy hiểm của cha.
Ngày 10.9.1901, Cha xin qua sống trong sa mạc miền khô cằn Bénis-Abbès, ở
Algérie. Tại đây, cha đã rửa tội nhiều người, xây dựng cơ sở truyền giáo, bỏ
tiền chuộc người nô lệ để trả tự do cho họ. Hằng ngày cha thức dậy từ 3 giờ
sáng, đọc kinh, suy gẫm rồi đi vào sa mạc để tìm đưa linh hồn con người về với
Chúa.
Ngày 27.5.1903, cha đến làm quen rồi sinh sống với các cư dân vùng ngã ba giữa
Algérie, Maroc và Sahara, với ý định truyền giáo cho họ. Đây là nơi quân đội
Pháp thường qua lại. Vì thế, người dân vùng này sống có qui củ thành làng, nhưng
chỉ biết có trời, không biết gì về Thiên Chúa.
Ngày 11.8.1905, cha lại đến truyền giáo ở vùng sa mạc Tamanrasset. Để công tác
truyền giáo hiệu quả, cha Charles de Foucauld say mê tìm đến những người du mục
sống trong hoang địa, làm quen, học tiếng của họ. Cha dịch Phúc Âm sang tiếng Ả
Rập. Ban ngày cha giúp họ những làm việc. Tối cha dành nhiều giờ suy gẫm. Cha
nêu cao đời sống bác ái để nói với cư dân địa phương về tình yêu của Thiên Chúa.
Từ miền khí hậu khắc nghiệt, hoang vu, nóng bỏng, đầy cát trắng này, cha chạm
phải nhiều đau khổ: Cha bắt đầu bị nhiều bệnh tật. Dù đây là nơi mà cha Charles
trở thành ân nhân của mọi người, vẫn có những nhóm người chống quân đội Pháp thù
ghét cha. Họ loan tin cha là phù thủy, rồi tìm cách bắt sống cha để làm con tin.
Đã có lần, do bị hại, cha bị thương trên đường đi…
Rồi chuyện gì đến cũng đã đến. Hôm ấy là tối ngày 1.12.1916, nhóm Touareges, gồm
40 người đã ập đến lục soát nơi cha ở. Dân làng hay tin, đã ùn ùn kéo đến. Nhưng
họ đã không kịp. Người ta đã nổ súng, viên đạn đâm thâu mắt trái xuyên vào đầu
cha. Cha Charles de Foucauld đã hiến dâng chính mình làm của lễ toàn thiêu cho
Thiên Chúa.
Người tông đồ là kẻ được Chúa kêu gọi, chứ không tự mình chọn Chúa. Người tông
đồ còn là kẻ được gọi sống với Chúa, chứ không phải chỉ biết một cách trừu tượng
những giáo huấn của Ngài mà thôi.
Cha Charles de Foucauld là tấm gương, là bằng chứng sống cho những ai xưng mình
là tông đồ của Chúa. Hãy bắt chước cha, đêm ngày cầu nguyện, suy gẫm, học hỏi
Lời Chúa, để ngày càng sống gần Chúa, sống thân tình với Chúa, nên một với Chúa
hơn.
Với chức vụ sĩ quan, con đường công danh, sự nghiệp, tương lai trần thế của Cha
Charles de Foucauld chắc chắn không nhỏ. Nhưng cha đã bỏ tất cả. Cha quyết tâm
ăn năn tội, phục hồi hình ảnh của Chúa nơi linh hồn mình.
Từ nội dung Tin Mừng và tấm gương dâng hiến đến cùng của cha Charles de
Foucauld, ta rút ra bài học quý giá: Muốn theo Chúa làm tông đồ, làm
nhà truyền giáo, phải từ bỏ, phải trở nên một người không vướng bận
chút lo toan vật chất, của cải nào.
Đúng hơn, theo Chúa, người môn đệ chỉ mang trong tâm hồn một thứ hành
trang duy nhất cần thiết, đó là lòng yêu mến và tin tưởng phó thác.
Mọi của cải vật chất, mọi tiện nghi… đều trở nên chướng ngại cho
việc truyền giáo. Bởi công tác truyền giáo là công tác khó khăn. Chỉ
có lòng yêu mền và tín thác vào Chúa, ta mới có thể vượt qua.
Một lần nữa, nhìn gương các tông đồ, nhìn gương cha Charles de Foucauld, nhìn
gương của biết bao nhiêu anh chị em trong lịch sử Hội Thánh, một lần nữa, chúng
ta xác tín như thánh Phaolô:
“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một tâm hồn tông đồ, để chúng con biết
hiến dâng cho Chúa tất cả nhiệt huyết, tất cả tình yêu, tất cả sự
sống của chúng con để danh Chúa được cả sáng. Chúng con tin rằng, như
các môn đệ của Chúa khi xưa, ngày nay, nếu chúng con biết từ bỏ mọi
sự theo Chúa, Chúa cũng sẽ biến đổi chúng con thành “những kẻ chài
lưới người ta”. Amen.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH