Regis Martin
“Những
linh hồn có phần số phong phú này, hơn tất cả những linh hồn khác, thoát
khỏi mọi loại thuyết định mệnh: họ phát tỏa, chiếu sáng với một sự tự do
chói lọi.”
~ George Bernanos, “Những người bạn của chúng ta, những vị thánh”
Viết
về sự thánh thiện thì không dễ dàng gì. Cũng đừng có ai mong muốn điều đó như vậy, bởi vì sự lưu
loát là điều cuối cùng chúng ta cần khi giáp mặt với những mầu nhiệm của ân sủng. Đặc
biệt điều này xảy ra khi bản thân tác giả có rất ít sự thánh thiện để khoác lác
về sự thánh thiện. Nhưng, thế thì, ngay cả nhà văn lớn Bernanos, là người đã
cất tiếng thể hiện linh hồn của nước Pháp Công giáo, đã có thể thoát khỏi những
giới hạn do thực tế đó áp đặt. Khi được mời thuyết trình cho một nhóm các
nữ tu - tất cả những nữ tử của Cha Charles de Foucauld tử vì đạo - về chủ đề sự
thánh thiện, Bernanos đã thú nhận sự bất xứng hoàn toàn của mình, ông nói với
khán giả rằng ông “liều lĩnh” biết chừng nào khi “dám nói về một đất nước mà
tôi chưa bao giờ đặt chân đến… ” Và theo sự mạo muội của chính mình, mặc dù ông
nhận mình là “một lữ khách dày dạn kinh nghiệm” đi dọc theo nhiều nẻo đường của
thế giới Công giáo, nhưng ông sẵn sàng thừa nhận rằng ông “chưa bao giờ gặp một
cư dân thực sự nào của đất nước này, dù chì là một người bản địa, cũng không….
”
Tất
nhiên, sự liều lĩnh dám tỏ ra mình là người hoàn toàn nực cười, nhận ra bản
thân mình hoàn toàn không có khả năng, thậm chí càng rõ ràng lố lăng hơn trong
trường hợp nói về những gương mẫu thực sự thánh thiện phi thường này. Ví dụ,
sự thánh thiện tuyệt đối trong cuộc đời
Thánh Giuse mà chúng ta đánh giá một cách đúng đắn là cao hơn bất kỳ một phàm nhân
hay chết nào khác. Chắc chắn là ngoại trừ Chúa Kitô của chúng ta và Mẹ
Cực Thánh Vô Nhiễm của Ngài, là Đấng đã được đầy ơn phúc hơn nhiều so với những
gì thánh Giuse có thể khao khát trở thành. Điều đó hẳn thật gây bối rối cho
người đàn ông tội nghiệp, ngày này qua ngày khác, thấy mình “phải sống” giữa Ngôi Lời Nhập Thể và Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội! Có gì ngạc
nhiên đâu khi thánh Giuse không nói lên được lời nào? Phải chăng sự trầm lặng
đó vẫn là tấm danh thiếp của ngài?
Mặt khác,
Thánh Giuse có bao giờ là một người nói huyên thuyên không? Sự im lặng chắc chắn là hành trang mạnh mẽ
của ngài trong suốt cuộc đời. Ngay cả sau khi thiên thần hiện ra trong
giấc mơ để khuyên ngài đừng từ chối cho phép Đức Maria sống trong nhà của ngài,
bởi vì đứa trẻ mà Mẹ sinh ra là Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã từ trời xuống
để “cứu dân Ngài khỏi tội lỗi” (Mátthêu 1:21). Giuse vẫn không nói lời nào. Thay vào đó ngài hành động,
với một sự nhanh nhạy đáng ngưỡng mộ và đáng kinh ngạc nhất. Nhưng đó
khó có thể là một điều dễ dàng đối với ngài. Tuy nhiên, khi nhẫn nhục chịu
đựng cụ thể như thế, ngài đã bộc lộ một trái tim chính trực và kiên quyết nhất. Thật
vậy, khi sẵn sàng phục vụ người phụ nữ mình yêu thương, thay vì đưa cô ấy ra trước
pháp luật, chúng ta thấy sự vĩ đại của người đàn ông, mà cuộc đời của ông héo
mòn trong nỗi nhớ về một lời hứa xa xưa được ban cho dân Thiên Chúa, mà ngài với
tư cách là một người con đích thực của dòng dõi Đavít đang khao khát được thấy
điều đó hoàn thành. Và giữa những chi tiết chán ngấy nhất của một cuộc sống
hoàn toàn bình thường, bị che giấu suốt những năm tháng ở Nadarét, ai sẽ sớm được
thấy tất cả những gì đã được Thiên Chúa hứa hẹn giữa Mẹ và Con của Mẹ — những người
mà ông, Giuse, đang được yêu cầu gìn giữ và bảo vệ bằng chính cuộc sống của
mình ?
Tại sao
Giáo Hội lại áp dụng tất cả các tước hiệu đó cho một người không tiếng tăm gì và
khiêm tốn như Giuse? Không có vị thánh nào khác
nơi thiên đàng bảo trợ cho cả Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ. Cũng
không có vị thánh nào mà những người lao động, hoặc những
người sắp chết, có thể chạy đến kêu cầu với sự tin tưởng tuyệt đối, vì Ngài là đấng
bảo trợ của họ? Chỉ có Thánh Giuse
là người mà Giáo hội yêu cầu chúng ta tôn vinh như là hình mẫu của sự dũng cảm
chịu đựng và sự hoàn thiện, và được coi như là Cha của tất cả những ai kêu cầu
Ngài.
Tuy
nhiên, đối với tất cả điều đó, trong câu chuyện đáng kinh ngạc về ơn cứu độ của
chúng ta, phần riêng của Ngài được tỏ hiện ra rất nhiều, dù lờ mờ, trong câu
chuyện kể, nhưng chính ngài lại không kể nó. Chứng tỏ sự khiêm tốn thì hùng
hồn hơn cả lời nói. Tôi tự hỏi, điều gì đã đưa Ngài đến sự dâng hiến cực độ như thế, trong sự dâng hiến đó, tất
cả cuộc đời và từng khoảnh khắc cuộc đời của Ngài là
sự tận tụy hoàn hảo và không ngưng nghỉ đối với Mẹ Maria và Hài nhi mầu nhiệm
mà Mẹ cưu mang? Một sự thuận phục mặc
nhiên, chúng ta đừng quên, mà ngài không buộc phải gánh chịu, dù bằng bất cứ
cách nào?
Cha
Jacques Philippe, trong một cuốn sách nhỏ tuyệt vời mang tên Tự do Nội tâm
[1], nhắc nhở chúng ta
rằng kinh nghiệm về tự do đích thực rất
thường xuyên đòi hỏi phải chấp nhận điều mà chúng ta không thể thay đổi. Cha
gọi đó là “quy luật nghịch lý của cuộc sống
con người”, phát triển từ sự thừa nhận rằng “người ta không thể thực sự tự do trừ khi người ta chấp nhận không phải
lúc nào cũng được tự do”. Nói cách khác, những khoảnh khắc mà chúng ta có nhiều khả năng trưởng thành trong tư
cách một con người – nghĩa là mở rộng tầm thánh thiện của chính mình, như nó vốn
có - chính xác lại là những thời điểm mà chúng ta không còn cơ hội để thao túng
và làm chủ tình hình. Nhưng vì cuộc sống chủ yếu là một ân huệ, vậy tại
sao chuyện chúng ta không thể cai quản mọi thứ lại trở nên quan trọng?
Ánh sáng của nghịch lý đó đổ trên cuộc đời của Thánh Giuse
buốt thấu như thế nào. Chẳng
hạn, liệu chừng ngài có thể đã hình dung ra được một tình huống nào khác mà trong
đó, xét theo bề ngoài, Ngài mất tự do hơn tình huống xuất phát từ việc vị hôn
thê của Ngài sinh cho Ngài một đứa con không thuộc về Ngài không? Để cam
chịu một tình huống không phải chính mình gây ra? Phải nói những dòng thoại
của một kịch bản mà không phải do chính Ngài viết? Phải chăng Ngài không
có lựa chọn nào khác? Cha Philippe nói với chúng ta rằng khi đối mặt với
những hoàn cảnh mà chúng ta không lựa chọn, đặc biệt là khi những hoàn cảnh đó
có vẻ nguy hiểm và xâm phạm, có ba khả năng xẩy ra với chúng ta. Trước hết,
là sự lựa chọn nổi loạn, từ chối thẳng thừng và nổi loạn khi đối mặt với lệnh
triệu tập mà chúng ta không yêu cầu và không hoan nghênh. Cha Philippe
nói, rút lui khỏi thực tế trước mắt chúng ta “thường là phản ứng đầu tiên, tự phát, của chúng ta trước khó khăn hoặc
đau khổ. Nhưng điều đó không bao giờ giải quyết được chuyện gì”.
Sau đó là
chọn lựa từ chức, có nghĩa như “một lời
tuyên bố về việc không còn quyền hạn gì nữa, không đi đến đâu. Đó có thể
là một giai đoạn cần thiết,” Cha nói thêm, “nhưng nếu dừng lại ở đó thì cũng chỉ là vô ích.”
Điều đó để
lại một lựa chọn thứ ba, đó là một thái độ tiếp thu dẫn đến sự đồng ý thực sự
và lâu dài. “Chúng ta đồng ý với một
thực tế mà ban đầu chúng ta coi là tiêu cực, bởi vì chúng ta nhận ra rằng điều
gì đó tích cực có thể nảy sinh từ đó”. Và phẩm chất của niềm hy vọng ẩn giấu trong cử chỉ, cũng như trong việc
Thánh Giuse sẵn sàng mở rộng lòng tín thác, trở thành ân sủng, cuối cùng đem lại
ơn cứu rỗi. Cha Philippe xác quyết mạnh mẽ nhất về quan điểm này
và đảm bảo với chúng ta rằng “điều quan
trọng nhất trong cuộc đời chúng ta không phải là những gì chúng ta có
thể làm được mà là nhường chỗ cho những gì Thiên Chúa có thể làm. Bí quyết
lớn lao của tất cả hoa trái và tăng trưởng thiêng liêng là học biết cách để cho
Thiên Chúa hành động.”
Đường học
hành trong cuộc đời của Thánh Giuse rất dốc đứng và nhanh vội biết chừng nào. Ngài phải học cách buông bỏ cuộc sống của
mình để cho Thiên Chúa đảm trách cuộc sống đó. Và Ngài phải làm điều đó
ngay lập tức; rồi thì, cứ như thế lặp đi lặp lại. Không có nhiều
người sẵn sàng buông bỏ con người mình nhiều như vậy. Thay vào đó, giống
như Eliot's Prufrock [2], họ thích một cuộc sống “được đong đếm bằng từng thìa cà phê”. Thánh Giuse không như vậy. Cuộc sống của
ngài là dấu hiệu thực sự của sự thánh thiện. Cương quyết dốc đổ mọi thứ, bởi
vì không có gì ít ỏi hơn mà lại làm được việc. “Hầu hết mọi người”, Bernanos nói, “chỉ cam kết phần ít ỏi nhất của bản thân trong cuộc đời, một phần bé
xíu đến nực cười trong con người họ, giống như những người giàu có bủn xỉn chỉ
tiêu xài tiền lãi trên khoản thu nhập mà họ kiếm được. Một vị thánh không
sống dựa trên lợi tức của thu nhập của mình, hoặc ngay cả trên thu nhập của
mình; vị ấy sống bằng vốn liếng của mình, vị ấy cống hiến tất cả tâm hồn của
mình… Cam kết tất cả tâm hồn của mình! Ồ, đó không chỉ đơn thuần là một
hình tượng văn học.”
Và vì vậy, thánh Giuse, được nâng đỡ bởi đức tin do Thiên
Chúa ban cho, sẽ ra khơi trong bóng tối hoàn toàn. Và trong khi Ngài không
thể nhìn thấy bến cảng nơi mà sự ấm áp và an toàn đang vẫy gọi Ngài, Ngài vẫn không
bị chìm, nhờ ân sủng của sự cậy trông, trong niềm khao khát lớn lao của mình đến
được bến bờ bên kia. Giống
như giọng nói trong Four Quartets [3] của Eliot , Ngài sẽ nói với linh hồn mình, "Hãy tĩnh lặng ... / Vì ... vẫn còn niềm tin”
Nhưng niềm tin, hy vọng và tình yêu tất cả đều ở trong sự
chờ đợi.
Hãy chờ đợi không ý kiến, vì bạn chưa sẵn sàng để suy nghĩ:
Như thế, bóng tối sẽ thành ánh sáng, và sự tĩnh lặng sẽ thành điệu múa.
Chú thích
của người dịch:
[1] Trải
nghiệm sự tự do của những người con của Thiên Chúa, cuốn Tự do Nội tâm khiến người ta khám phá ra rằng ngay cả trong những
hoàn cảnh bên ngoài bất lợi nhất, chúng ta vẫn sở hữu trong mình một không gian
tự do mà không ai có thể lấy đi được, bởi vì Thiên Chúa là nguồn gốc và bảo đảm
của nó. Nếu không có khám phá này, chúng ta sẽ luôn bị hạn chế theo một
cách nào đó và sẽ không bao giờ nếm được hạnh phúc thực sự. Tác giả
Jacques Philippe phát triển một chủ đề đơn giản nhưng quan trọng: chúng ta có
được quyền tự do trong lòng mình tỷ lệ thuận với sự phát triển của chúng ta
trong đức tin, đức cậy và đức mến. Tác giả giải thích rằng sự năng động giữa
ba nhân đức đối thần này là trọng tâm của đời sống thiêng liêng, và ông nhấn mạnh
vai trò then chốt của nhân đức hy vọng (đức cậy) trong sự trưởng thành nội tâm
của chúng ta. Được viết theo phong cách đơn giản và hấp dẫn, cuốn Tự do nội tâm tìm cách giải thoát cõi
lòng và trí não để sống tự do thực sự mà Chúa mời gọi mỗi người.
[2] Bản tình ca của J. Alfred Prufrock,
thường được gọi là Prufrock,
là một bài thơ của nhà thơ người Mỹ T.S. Eliot, bắt đầu viết từ tháng 2
năm 1910, viết xong năm 1911 và in lần đầu ở tạp chí Poetry (Chicago)
bốn năm sau đó (tháng 6 năm1915). Bản tình ca... là một vở kịch
về "nỗi đau đớn của văn học," nó thể hiện ở dạng một độc thoại đầy kịch
tính, và đánh dấu sự bắt đầu sự nghiệp văn học Eliot như là một nhà thơ có ảnh
hưởng. Với vẻ chán nản, hối tiếc và sự khát khao nhận thức, một mặt nào đó cũng
giống như vở kịch Hamlet với "to be, or not to be" (tồn
tại hay không tồn tại). Chủ đề của Bản tình ca… là không thể yêu.
Từ không thể yêu đến không thể sống cũng chẳng xa xôi gì, và bài thơ kết thúc bằng
lời "ta chết chìm" (we drown).
[3] Bốn
khúc tứ tấu (tiếng Anh: Four
Quartets) – là một
trường ca gồm 4 phần: Burnt Norton (1935),
East Coker (1940), The Dry Salvages (1941) và Little Gidding (1942) của nhà thơ
Mỹ đoạt giải Nobel Văn học năm 1948 T. S. Eliot. Đây là tác phẩm thể hiện quan
niệm thơ ca và triết học của Eliot được hình thành trong những thập niên 20,
30, (thế kỷ XX) tiêu biểu là tác phẩm Ngày
thứ tư lễ tro. Eliot kết hợp ở đây khái niệm về linh hồn bất tử của Kitô
giáo với cách giải thích khoa học những phạm trù như thời gian, nơi chốn, sự vô
tận, sự chuyển hoá liên tục thành những hình thái khác nhau của đời sống…
Regis
Martin
Regis Martin là Giáo sư Thần học
và Phó Khoa của Trung
tâm Veritas về Đạo đức trong Đời sống Cộng đồng tại Đại học Phanxicô
Steubenville. Ông có bằng cử nhân và tiến sĩ thần học tại Đại học Giáo
hoàng Thánh To6ma Aquinô ở
Rôma. Martin là tác giả của một số cuốn sách, bao gồm Still Point:
Loss, Longing, and Our Search for God (2012) và The Beggar's
Banquet (Đường Emmaus). Cuốn sách gần đây nhất của ông, cũng được
xuất bản bởi Emmaus Road, có tên là Witness to Wonder: The World of
Catholic Sacrament.
https://www.crisismagazine.com/2016/saint-joseph-strong-and-silent