Hỏi: Trong bài trước cha đã nói đến các Đạo cùng tôn thờ
Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học, tín lý, giáo lý, bí tích, phụng
vụ .v.v
Xin cha nói rõ hơn về những khác biệt này giữa Công Giáo,
Chính Thống, Anh Giáo và Tin Lành.
Trả lời:
Như đã giải thích trong bài trước, Đạo Thánh của Chúa Kitô
và Giáo Hội duy nhất của Chúa xây trên Đá Tảng Phểrô,qua thời gian, đã bị rạn
nứt hay ly giáo ( schisms) phân chia thành ba Nhánh Kitô Giáo là Công Giáo Roma
(The Roman Catholicism ) , Chính Thống Giáo Đông Phương ( Eatern Orthodox
Churches) và Tin Lành ( Protestantism).Đây là hậu quả của những cuộc cải cách
tôn giáo xảy ra vào thế kỷ XVI ở Tây Phương trên đây, từ đầu, đều thuộc Đạo
Thánh của Chúa Kitô gọi chung là KitôGiáo (Christianity). Nhưng theo dòng thời
gian, đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (schisms) trong
Giáo Hội nói chung. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo ( Anglican
Communion) do vua Henri VIII (1491-1547) của nước Anh
chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho Nước Anh,
tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh La Mã ( Đức Giáo Hoàng Clement VII) không chấp
nhận cho nhà vua ly di để lấy vợ khác.
Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được
với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được.. Nguyên nhân
thì có nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được đặt ra, tôi chỉ xin nên sau đây
những dị biệt căn bản giữa bốn Nhánh Kitô Gíáo lớn trên đây mà thôi.
I-Chính Thống (orthodoxy) khác biệt
với Công Gíáo La Mã ( Roman Catholicism) ra sao?
Trước hết, danh xưng Chính Thống "Orthodoxy", theo ngữ căn
(etymology) Hy lạp " orthos doxa", có nghĩa là "ca ngợi đúng
(right-praise), "tin tưởng đúng " ( right belief) . Danh xưng này được dùng
trước tiên để chỉ lập trường của các giáo đoàn Kitô đã tham dự các Công Đồng đại
kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451)
trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân
chính( sound doctrines) , tinh tuyền của KitôGíáo để chống lại những gì bị coi
là tà thuyết hay lạc giáo (heresy).Do đó,trong bối cảnh này, từ ngữ "orthodoxy"
được dùng để đối nghịch với từ ngữ " heresy" có nghĩa là tà thuyết hay
lạc giáo.
Nhưng sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội Kitô Giáo Hy
Lạp ở Constantinople ( tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo LaMã (
Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau ( anthemas=excommunications)
ngày 16 tháng 7 năm 1054 giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và
Đức cố Giáo Hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học và quyền
bính, thì danh xưng "Chính Thống" ( orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy
Lạp ở Constantinople đã tách ra khỏi hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã.
Sau này, Giáo Hội "Chính Thống" Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia
trong vùng như Thổ nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia,
Lithuania, Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine...Vì thế, ở mỗi quốc gia này
cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện.Nghĩa là
không có ai là người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi
chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) tách
khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã.(Tây Phương)
Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ ( Patriarch) Giáo Hội Chính
Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul được coi là Thượng Phụ Đại Kết ( Ecumenical
Patriarch) của các Giáo Hội Chính thông Đông Phương.Cách nay 6 năm Đức Thánh Cha
Bê-nê-đich tô XVI ( đã về hưu năm 2012) đã sang thăm Đức Thượng phụ Giáo Chủ
Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo
Hội anh em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí
muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo La Mã, vì họ cho rằng Công Giáo muốn "lôi
kéo" tín đồ Chính Thống Nga vào Công Giáo sau khi chế độ cộng sản ở Nga tan rã,
tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thông Nga hành Đạo. Dầu vậy, một biến
cố mới xẩy ra trong năm qua (2016) là Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp Thượng Phụ
Giáo Hội Chính Thông Nga tại MỄ TÂY CƠ (Mexico), nhưng kết quả của cuộc gặp gỡ
lịch sử này giữa hai vi lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Nga không được công bố
sau đó.Nhưng đây là một dấu chỉ tích cực giữa hai Giáo Hội anh em muốn hiệp
nhất với nhau trong cùng một niềm tin vào Chúa Kitô.
Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai Nhánh Kitô giáo
lớn ở Đông và Tây phương( The Greek Church and the Holy See=Rome) nói trên vẫn
hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh em này
đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử
truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng ở vùng đất nay là
lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma) trong khi em ngài, Thánh Anrê
(Andrew) sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy lạp và sau đó phần đất nay
là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội KitôGiáo Đông Phương
Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông đồ thuần túy ( Apostolic
succession).
Sau đây là những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo
(schism) Đông Tây năm 1054.
1- về tín lý, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương-
tiêu biểu ban đầu là Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople- đã bất đồng với Giáo
Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “ Filioque” ( và Con) thêm vào trong
Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha, và Chúa Con mà
ra”.
Giáo Hội Chính Thông Đông Phương cũng không công nhận các tín
điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác
(Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).
Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng,
nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố với ơn bất khả ngộ
(Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.
Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo
Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp
nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai
bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử năm 1966 giữa Đức
Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople khi đó là
Athenagoras I.
Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy bí tích hữu hiệu như Công Giáo.
Tuy nhiên, với bí tích rửa tội thì họ dùng nghi thức dìm xuống nước
(immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo
Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa
chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân ( đối với người tân tòng) và
tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.
Chính vì Giáo Hội Chính Thống có đủ các bí tích hữu hiệu như
Công Giáo, nên giáo dân Công Giáo được phép tham dự Thánh lễ và lãnh các bí tích
hòa giải và sức dầu của Chính Thống nếu không tìm được nhà thờ Công Giáo hay
linh mục Công giáo khi cần..
2-Về phụng vụ, Giáo Hội Chính Thống dùng bánh
có men (leavened bread) và ngôn ngữ Hy lạp khi cử hành phung vụ trong khi Giáo
Hội Công Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong phụng
vụ thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu
thuộc mọi nền văn hóa, chủng tộc khác nhau, trong đó có tiếng Viêt Nam.
3-Sau hết, về mặt kỷ luật giáo sĩ: các Giáo
Hội Chính Thông cho phép các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong
khi kỷ luật độc thân (celibacy) lại được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng
giáo sĩ và tu sĩ Công Giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (permanent deacons).
Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông
Phương và Giáo Hội Công Giáo La Mã cho đến nay.
Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo
hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc
tông đồ và về nền tảng đức tin, giáo lý, bí tích và Kinh thánh. Vì thế, giáo lý
của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự
hiệp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để
có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x.SGLGHCG, số
838).
Vì Chính Thống Giáo có đủ bảy bí tích hữu hiệu, nên giáo dân
Công Giáo được phép tham dự Thánh Lễ và lãnh các bí tích hòa giải và sức dầu ở
nhà thờ và các linh mục Chính Thống, nếu không tìm được nhà thờ và linh mục Công
Giáo nơi mình cư ngụ.
II- Tin lành ( Protestantism)Anh Giáo (
Anglican Communion) và những khác biệt với Công Giáo.
Như đã nói trong bài trước, Tin lành, nói chung, là Nhánh
KitôGíáo đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau những cuộc cải cách tôn giáo do
Martin Luther, một linh mục Dòng thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức
và lan sang Pháp với John Calvin và Thụy sỹ với Ulrich Zwingli và các nước Bắc
Âu sau đó.Hiện nay có hàng chục ngàn giáo phái này ở Mỹ, hoạt động với nhiều
danh xưng khác nhau, nhưng cùng ít nhiều có liên hệ đến nguồn gốc thệ phản (
protestantism)nói trên. Một đặc điểm của các giáo phải Tin Lành là họ không có
hệ thống giáo quyền ( Hierachy) chung như Giáo Hội Công Giáo có hàng giáo phẩm
tối cao từ trung ương Roma cho đến các giáo hội địa phương ở mỗi quốc gia.Các
nhánh Tin Lành hầu như độc lập với nhau về quyền bính, nhân sự, tài chính và
phương thức hành đạo.
1-Ở góc độ thần học,
Những người chủ trương cải cách (reformations) trên đã hoàn
toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích và cơ cấu tổ chức giáo quyền (Hierachy)
của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc
hòa giải con người với Thiên Chúa qua bí tích tha tội hay hòa giải
(reconciliation) vì họ không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh (Holy Orders)
qua đó Giám mục, Linh mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh
Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi hành mọi sứ vụ (ministry) thiêng
liêng khác. (rửa tội, thêm sức, thánh thể, Xức dầu thánh, chứng hôn).
Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con người đã
bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ
lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị.Do đó, chỉ cần tuyên xưng
đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide,
sola scriptura).
Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách
nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ, con
người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công
nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí công tác với
ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa
không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ:
“không phải bất cứ ai thưa
với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu!
Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào
mà thôi.” (Mt 7:21).
Nói khác đi, không phải rửa tội xong, rồi cứ hát Alleluia
và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan trong hơn nữa là phải sống theo
đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam kết khi được rửa tội: đó là mến
Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không, rửa tội và kêu danh Chúa thôi vẫn
ra vô ích.
Anh em tin lành không chia sẻ quan điển thần học này, nên họ
chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng Kinh Thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần
đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài phép rửa và Kinh
Thánh, họ không tin và công nhận một bí tích nào khác.Điển hình
Là bí tích hòa giải mà các giám mục và linh mục Công Giáo
được phép tha tội cho các hối nhân nhân danh Chúa Kito ( in persona Christi).
Lại nữa, vì không công nhận phép Thánh Thể, nên họ không tin
Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái
Tin lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng kinh
thánh., Nhưng đó không phải là cử hành Bí Tích Thánh Thể ( Eucharist) như trong
Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo Đông Phương.. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ
là giảng kinh thánh vì họ chỉ tin có Kinh Thánh ( Sola Scriptura) mà thôi.
2- Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo
cách hiểu riêng của họ, nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với
cách hiểu và cắt nghĩa của Giáo Hội Công Giáo.
Thí dụ, câu Phúc Âm trong Matthêu 22 : 8-9 trong đó Chúa
Giêsu dạy các tông đồ “ không được
gọi Ai dưới
đất là Cha, là Thầy .”. anh em Tin Lành hiểu lời Chúa trong ngữ
cảnh (context) câu trên hoàn toàn theo nghĩa đen (literal meaning) nên đã chỉ
trích Giáo Hội Công Giáo là ‘lạc giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “
Cha” (Father, Père, Padre)!.
Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý
của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế
Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng; “ Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những
người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và
giáo huấn.” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).
Một điểm sai lầm nữa trong cách đọc và hiểu kinh thánh của
Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô kể lại một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng
dạy cho một đám đông người thì Đức Mẹ cà các môn đệ
của Chúa đến. Có người trong đám đông đã nói với Chúa rằng: “Thưa
Thầy có mẹ và anh em, chị em của Thầy ở ngoài kia đang
tìm Thầy.”
(Mc 3:32). Anh em tin lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ
trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính thống, vì họ cho rằng Mẹ Maria đã
sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh
cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ “anh chị em “trong ngữ cảnh
(context) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa thiêng liêng (spiritual
brotherhood, sisterhood) và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công
Giáo và Chính Thống, khác với Tin lành và Anh giáo.
Sau hết, về mặt quyền bình, các giáo phái Tin lành và Anh
giáo đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện (Vicar) duy nhất của Chúa
Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.
Chính vì không công nhận Đức Giáo Hoàng là Thủ Lãnh Giáo Hội
duy nhất của Chúa Kitô nên đây là trở ngại lớn cho các nhánh Tin Lành và Anh
giáo muốn hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo.
3- về bí tích:
Tất cả các nhóm Tin Lành và Anh Giáo đều không có các bí tích
quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức
Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic succession)- và quan trọng
hơn nữa, người sáng lập của họ là người thường dân ( Martin Luther, John
Calvin..Henry VIII) chứ không phải là chính Chúa Giêsu-Kitô, Đấng đã lập Giáo
Hội của Chúa trên Đá Tảng Phêrô.( Mt 16: 18-19) và “ Giáo Hội
này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phê rô và các Giám mục
hiệp thông với Ngài điều khiển” như Thánh Công Đồng Vaticanô II đã tuyên bố.
( x. LG. số 8). Cho nên các nhánh Tin Lành và Anh giáo đều không có chức linh
mục và giám mục hữu hiệu để cử hành các bí tích trên.
Đa số các nhóm Tin Lành và Anh Giáo chỉ có phép rửa (
Baptism) mà thôi. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba
Ngôi (The Trinitarian Formula) như nhóm Bahai Hullah và Marmonites ở Mỹ , thì
không thành sự ( invalidly) . Do đó, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu
Tin Lành nào không được rửa tội với nước và công thức trên thì phải được rửa tội
lại như người dự tòng.(catechumens). Nếu họ được rửa tội thành sự thì chỉ phải
tuyên xưng đức tin khi gia nhập Công Giáo mà thôi
III-Anh Giáo ( Anglican Communion)
Nhóm Kitô Giáo này do Vua Henry VIII của Nước Anh tự tách ra
khỏi hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Roma từ năm 1534 vì nhà vua bất mãn với
Đức Thánh Cha Clemente VII, đã không cho phép ông li dị để lấy vợ khác.Nhóm này
khác biệt với Giáo Hội Anh Quốc ( The Church òf England) Là Giáo Hội hiệp thông
và vâng phục Giáo Hội Công Giáo Roma do Đức Thánh Cha làm Thủ Lãnh với sự hiệp
thông và vâng phục trọn vẹn của các Giáo Hội Công Giáo địa phương ở khắp nơi
trên thế giới.Người lãnh đạo Nhóm Anh Giáo nói trên là Vua Nứớc Anh ( nay là Nữ
Hoàng Elizabeth II).Vì không có nguồn gốc Tông Đồ, nên Anh Giáo không có các Bí
Tich hữu hiệu như Công Giáo, trừ Phép Rửa mà Anh Giáo có chung với các nhóm Tin
Lành và với Công Giáo.Vì không có các Bí Tích Thánh Thể và Hòa Giải hữu hiệu
nên các linh mục Anh Giáo không thể cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn ( The Eucharist) hữu
hiệu như Công Giáo được. Cho nên, các tín hữu Công Giáo không được tham dự Lễ
của các linh mục Anh Giáo để thay cho lễ của Công Giáo, cũng như không thể đi
xưng tội với các linh mục Anh Giáo vì họ không có Bí Tich hòa giải (
Reconciliation) hữu hiệu như Công Giáo.Sau hết, nếu các linh mục và giám mục Anh
Giáo trở lại Công Giáo thì họ phải được huấn luyện lại và chiu chức lại trong
Giáo Hội Công Giáo, vì Công Giáo không nhìn nhận các bí tích của Anh giáo trừ
Phép Rửa.Chỉ có một đặc ân cho các linh mục Anh Giáo là họ được phép giữ vợ con
sau khi được chịu chức linh mục trong Giáo Hội Công Giáo.Các tín hữu Anh Giáo
thì phải tuyên xưng đức tin khi họ gia nhập Giáo Hội Công Giáo.Họ không cần được
rửa tội lại vì Công Giáo nhìn nhận Phép Rửa của Anh Giáo.Chỉ có những ai không
được rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi ( Trinitarian Formula) như nhóm
Bahai Hullad và Marmonites bên Mỹ thì mới phải được rửa tội lại khi họ gia
nhập Giáo Hội Công Giáo mà thôi.
Đó là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo,Chính Thống Giáo,
Tin Lành và Anh Giáo nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo vẫn hướng về các
anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực đại kết
(ecumenism) mà Giáo hội đã theo đuổi và cầu nguyện trong nhiều năm qua.
Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục đích hiệp nhất này giữa
những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô nhưng chưa hiệp thông (communion)
và hiệp nhất ( unity) với Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã
thiết lập trên nền tảng Tông đồ Phêrô, do Đức Thánh Cha, cũng là Giám Mục Roma,
người kế vị Thánh Phêrô trong trách nhiệm coi sóc và lãnh đạo Giáo Hội với
sự cộng tác và vâng phục trọn vẹn của Giám Mục Đoàn. (College of Bishops) hay
của các Giáo Hội Công Giáo địa phương ở các quốc gia trên thế giới.
Ươc mong những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn