Hỏi: Xin cha
cho biết các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương là ai và có mặt ở đâu trong trần
gian.
Trả lời:
Xưa nay,
người ta chỉ quen nói đến các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương (Eastern
Orthodox Churches) tức các Giáo Hội Chinh Thống Giáo hiện chưa hiệp thông trọn
vẹn (full communion) với Giáo Hội Công Giáo La Mã sau cuộc ly giáo Đông –Tây (East-West Schism) năm 1054.
Mặc dù có
nhiều cố gắng để xích lại gần nhau vì cùng chung nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic
succession) nhưng Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương
cho đến nay vẫn chưa thể hiệp thông được mặc dù đã tha vạ tuyệt thông (anthemas = excommunications) cho nhau, sau khi Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức
Thượng Phụ Athenagoras I (Constantinople Hy lạp) gặp nhau lần đầu tiên năm 1966
đem lại kết quả cụ thể là hai Giáo Hội đã tháo gỡ vạ tuyệt thông cho nhau sau
cuộc gặp gỡ lich sử này.
Tuy nhiên,
giữa Hai Giáo Hội anh em trên đây vẫn chưa hiệp thông trọn vẹn được với nhau
cho đến nay chỉ vì trở ngại lớn là vai trò lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Rôma của
Đức Thánh Cha, tức Giám Mục Rôma mà anh em Chính Thống Đông Phương chưa nhìn
nhận và vâng phục.
Trong phạm vi
bài viết này , tôi xin được giải thích rõ về các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương
(Eastern Catholic Churches) hiện đang hiệp thông trọn vẹn và tôn trọng vai trò
lãnh đạo Giáo Hội của Đức Thánh Cha, là Đấng duy nhất thay mặt Chúa Kitô (Vicar
of Christ) trên trần thế trong vai trò và trách nhiệm cai quản Giáo Hội Công
Giáo hoàn vũ.
I- Đôi dòng
lịch sử
:
Như đã nói ở
trên, ngoài các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương chưa hiệp thông với Giáo Hội
Công Giáo La Mã, còn có các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương (Eastern Catholic
Churches) đang hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ mà có lẽ ít người biết
đến họ
Khi nói đến
các Giáo Hội này, người ta phải nghĩ ngay trước hết đến bốn Tòa Thượng Phụ (Patriarchates) ở phương Đông là Alexandria, Antioch, Jerusalem và
Constantinople, ngoài Tòa Thượng Phụ Rome về phái Tây, tức Giáo Hội Công Giáo
La Mã. Các Tòa Thượng Phụ này đặc tránh các giáo đoàn Kitô giáo có nghi thức
phụng vụ riêng theo văn nhóa và truyền thống lâu đời sau đây:
1-Thuộc về
Giáo Hội hay Tòa Thượng Phụ Antioch là các giáo đoàn West Syrians, Maronites (
Công Giáo Li Băng) và Malankarese, Chaldeans ( Công giáo Iraq) và Armenians.
2- Thuộc về
Giáo Hội hay Tòa Thượng Phụ Alexandria là các giáo đoàn Coptic (Công giáo Ai
Cập) và Công giáo Ethiopians
3- Thuộc Giáo
Hội hay Tòa Thượng Phụ Constantinople là nhóm Kitô Giáo Đông Phương đông đảo
nhất theo nghi thức Byzantine. Ho là những tín hữu Hy Lạp,, Bảo gia lợi (
Bulgarians) Georgians, Nga .., Ukrainians, Estonians, Hungarians, Rumanian,
Egyptians…
4-Giáo Hội
hay Tòa Thượng Phụ Rôma là cái nôi của Giáo Hội Công Giáo phương Tây, khác biệt
với Phương Đông về nhiều mặt như nghi thức phụng vụ, giáo luật và kỷ luật bí
tích., lễ phục , tu phục..
Các Tòa
Thượng Phụ nói trên, từ đầu, được coi là các Giáo Hội Mẹ của Kitô Giáo (Mother
Church of Christianity) trước khi xẩy ra những cuộc ly giáo (schisms) mà nghiêm
trọng hơn hết là ly giáo giữa Rome và Constantinople (Hy Lạp) vào năm 1054 và
kéo dài cho đến nay.
Cũng từ đó,
Constantinople tự nhân trở thành Giáo Hội Chính Thống Phương Đông và lan tràn
qua các quốc gia trong vùng như Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Roumania, Serbia, Cyprus,
Lebanon… Bên canh các Giáo Hội này, là các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương bắt
nguồn từ 3 Toà Thượng Phụ Alexandria, Antioch và Jerusalem, tức các Giáo Hội Mẹ
của Công Giáo Đông Phương. Các Giáo Hội này cũng có thời gian khá lâu đã không
hiệp nhất với Giáo Hội Rôma vì những hoàn cảnh và lý do đặc thù, không thể nói
hết ở đây trong khuôn khổ của một bài viết được. Vì thế, chỉ xin tóm tắt là khi
các Giáo hội Kitô Giáo địa phương này trở lại hiệp thông với Giáo Hội Công
Giáo La Mã ( Rome ) thì họ có tên gọi chung là “Các tín hữu qui hiệp =
Uniates , nghĩa là hiệp thông trở lại với Rôma `sau thời gian ly khai vì
những lý do riêng biêt.Và cũng từ đó, họ được gọi là các Giáo Hội Công Giáo Đông
Phương ( Easter Catholic Churches) để phân biệt với các Giáo Hội Chính Thống
Đông Phương ( Easter Orthodox churches) chưa hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo
Rôma.
Các Giáo hội
Công Giáo Đông Phương có đặc tính chung là mỗi Giáo Hội đều có có các nghi thức
phụng vụ với ngôn ngữ riêng, giáo luật riêng và kỷ luật bí tích riêng, mặc dù
cùng chia sẻ chung một niềm tin, một giáo lý, một nền tảng luân lý, và các bí
tích với Giáo Hội Công Giáo La Mã cũng như vâng phục Đức Thánh Cha là Đấng
thay mặt Chúa Kitô trong vai trò và trách nhiệm cai quản Giáo Hội Công Giáo
hoàn vũ,
Đứng đầu coi
sóc các Giáo Hội địa phương nói trên là các Thượng Phụ (Patriarch) tương đương
như một Tổng Giám mục coi sóc một Giáo tỉnh ( Ecclesial Province) trong Giáo Hội
Công Giáo hoàn vũ.
Theo Sắc Lệnh
về các Giáo Hội Đông Phương (Orientalium Ecclesiarumn) (OE) của Thánh
Công Đồng Vaticanô II, thì “ Thể chế Thương Phụ (Patriarchy) đã được
thịnh hành từ lâu đời trong Giáo Hội và đã được các Công Đồng chung nhìn nhận.
Thực ra danh
hiệu Thượng Phụ Đông Phương (Eastern Patriarch) được dùng để chỉ vị Giám mục có
thẩm quyền trên tất cả các giám mục kể cả các vị Tổng Giáo Chủ (Tổng Giám mục),
trên hàng giáo sĩ và giáo dân trong địa hạt hay thuộc lễ chế của mình, chiếu
theo luật định, nhưng vẫn tôn trọng quyền tối cao của Giáo Hoàng La Mã.”
(cf. OE. Số 7)
II- Các Giáo
Hội Công Giáo Đông Phương hiện ở đâu ?
1-
Trươc hết là
Giáo Hội Công Giáo Syro-Malabar
Lãnh thổ của
Giáo Hội này nằm trong Tiểu Bang Kerala ở phía Tây Nam Ấn Độ. Giáo Đoàn này xuất
phát từ Cộng Đồng Kitô Giáo có nguồn gốc Tông Đồ là Thánh Thomas, nên họ cũng
được gọi là các`Kitô hữu Thánh Tô Ma ( Thomas Christians) . Nhóm này đã ly khai
khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã từ năm 1653 vì không muốn chịu ảnh hưởng của Dòng
Tên( Jesuits) đang truyền giáo ở vùng này. Nhưng đến năm 1930 nhóm này đã quay
trở lại và được đón nhận hiệp thống với Giáo Hội Công Giáo. Từ sau Công Đồng
Vaticanoo II, họ đã bỏ ngôn ngữ Syriac trong phụng vụ và thay bằng ngôn ngữ
Malayalam phổ thông hơn. Hiện Giáo Hôi Công Giáo Syro-Malabar có 3 Địa phận với
khoảng gần 300,000 tín hữu sinh hoạt trong Tiểu Bang Kerala ở miền Tây Nam Ấn
Độ
Dĩ nhiên,
ngoài nhóm Công Giáo với nghi thức phụng vụ riêng này , còn có Giáo hội Công
Giáo của Ấn Độ ( The Catholic Church Of India ) theo nghi thức La tinh ( Latin
Rite) hiệp thông trọn vẹn với Rôma ,và có số giáo sĩ và giáo hữu đông hơn nhóm
kia.
2-
Giáo Hội Công
Giáo Chaldean
(The Chaldean Catholic Church) của người Kitô hữu Ỉraq
Nhóm này phần
lớn tập trung ở thủ đô Baghdag với nghi thức phụng vụ riêng gọi la Chaldean
Rite hay còn gọi là East Syrian hay Assyro-Chaldean Rite. Nghi thức này bắt
nguồn từ di sản phụng vụ cổ xưa của Giáo Hội Mesopotamia.trong đế quốc Ba Tư
Giáo Đoàn này
hiện có khoảng 500,000. Tin hữu với 10 Địa phận ở Iraq và 4 Địa phận nữa ở Iran.
Ở Hoa Kỳ, cũng có một Địa phận dành cho người Công Giáo Iraq theo nghi thức
Chaldean.Giáo Đoàn này chính thức hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã sau
khi Đức Thánh Cha Julius III tấn phong Giáo Mục cho Thượng Phụ Simon VIII ngày 9
tháng 4 năm 1553 để coi sóc Giáo Đoàn Chaldean ở Iraq.
3-
Giáo Hội Công
Giáo Maronites
(The Maronite Catholic Church)
Đây là Giáo
Hội Công Giáo của người Li Băng (Lebanon). Giáo Hội này xuất hiện từ năm 681
và lấy tên Thánh Maron làm tên gọi chung của Giáo Đòan. Đã có thời gian dài Giáo
Đoàn này không hiệp thông với Rôma. Nhưng từ năm 1182 đến nay, Giáo Đoàn này đã
hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo La Mã,.Họ theo nghi thức riêng gọi là
Maronite Rite với ngôn ngữ phụng vụ là Syriac và Arabic.Nghi thức phụng vụ này
không những có ở Li Băng mà còn thấy thực hành ở Syria , Ai Cập và Cyprus.
Một bến có
quan trọng là ngày 14 tháng 4 năm 2011, Thượng phụ Antioch coi sóc người Công
giáo Maronites, đã đến Rome để viếng thăm Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI cùng với
một số giám mục và linh mục Maronites. Nhân dịp này Đức Thánh Cha đã long trọng
nhắc lại với Đức Thượng Phụ Bechara Pierre Rai về việc Giáo Hội Công Giáo Roma
hoan hỉ đón mừng anh em Moronites Hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo như Đức
Thánh Cha đã nói trong thư gửi Đức Thượng Phụ ngày 24 tháng 3 năm 2011
4-
Giáo Hội Công
Giáo Coptic
(The Coptic Catholic Church)
Danh xưng
Copt là tiếng Arabic có nghĩa là Ai Cập, được dùng để chỉ những tín hữu Công
Giáo hay Chính Thông Giáo Ai Cập.Do đó, Giáo Đoàn Coptic là Giáo Hội Công Giáo
Ai Cập (Egypt) đã hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Rôma từ năm 1741, sau
nhiều thăng trầm của lịch sử Ai Cập nói chung và lịch sử sống còn của Giáo hội
Coptic nói riêng.Theo lịch sử truyền giáo thì Thánh Marc-cô, thánh sử., đã
thành lập Giáo Hội này cho người Kitô hữu Ai Cập. Mặt khác, danh xưng Coptic
cũng được dùng để chỉ Giáo Hội Chính Thống Ai Cập ( The Coptic Orthodox Church)
như đã nói ở trên.
Giáo hữu
Coptic hiện nay chỉ có vào khoảng 180,000 người ở Ai Cập và được coi sóc bởi một
Thượng Phụ (Patriarch) ở Alexandria Ngôn ngữ phụng vụ của họ là tiếng Arabic và
Coptic ( tiếng Ai Cập)
Để đánh giá
cao những đóng góp của các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, Thánh Công Đồng
Vaticanô II, qua Sắc Lệnh Orientalium Ecclesiarum, (OE) đã long trọng
tuyên bố như sau về các Giáo hội này:
“ Lịch sử,
các truyền thống và rất nhiều thể chế trong Giáo Hội đều chứng minh rõ ràng rằng
các Giáo Hội Đông Phương có công biết bao đối với toàn thể Giáo Hội. Vì vậy,
Thánh Công Đồng không những hết lòng yêu mến và ca ngợi đúng mức gia sản tinh
thần của các Giáo hội này, mà còn xác quyết đó là sản nghiệp của toàn thể Giáo
Hội Chúa Kitô. Do đó Thánh Công Đồng long trọng công bố rằng các Giáo Hội Đông
Phương cũng như Tây Phương đều có quyền lợi và bổn phận theo những qui luật
riêng của mình và những qui luật này có giá trị nhờ ở đặc tính cổ kính đáng quí
trọng, phù hợp với tập tục của tín hữu hơn và xem ra có thể mưu ích cho các linh
hồn cách hữu hiệu hơn.” (OE, số 5)
Cũng cần nói
thêm là, theo lịch sử Giáo Hội, thì Phương Đông là nơi đã đóng góp cho Giáo Hội
những vị đại Giáo Phụ (Church Fathers) nổi danh như các thánh Ignatius of
Antioch, thánh Ephrem, thánh Athanasius, thánh Cyril of Jerusalem, thánh Cyril
of Alexandria, thánh Gregory of Nyssa, thánh .John Chrysostom, thánh Basil the
Great, thánh Gregory of Nazianzus và thánh John Damascene.
Mặt khác,
nền thần học Kitô Giáo (Christian theology) và lối sống đan viện hay ẩn
tu (Monasticism) cũng xuất phát từ Phương Đông trước khi được chấp
nhận và sửa đổi bên Tây Phương.Thêm vào đó, trong vòng 9 trăm năm lịch sử Giáo
Hội, các Công Đồng Đại kết (Ecumenical Councils) đều họp ở Phương Đông.
Sau hết,
những kinh phụng vụ như the Kyrie, the Gloria, và Kinh Tin Kinh Nicene
mà phụng vụ Giáo Hội ngày nay đang dùng cũng là di sản thiêng liêng của Phương
Đông.
Như thế đủ
cho thấy là các Giáo Hội Đông Phương, từ lâu đã là một trong những thành trì
kiên cố của KitôGiáo trước khi xảy ra những cuộc ly giáo( schism) ,đặc biệt là
ly giáo Đông Tây giữa Constantinople và Rome năm 1054, khiến một phần quan trọng
của Phương Đông (Các Giáo Hội Chính Thống) không còn hiệp thông cho đến nay với
Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, mặc dù cùng chung một niềm tin, một Phép Rửa , một
Kinh Thánh, một nguồn gốc Tông Đồ.
Chúng ta tha
thiết cấu xin cho Giáo Hội duy nhất mà Chúa Kitô đã thiết lập trên nền tảng Tông
Đồ được mau hiệp nhất để cùng thờ lậy, tôn vinh và cảm tạ một Thiên Chúa duy
nhất với Ba Ngôi Vị trong Mầu Nhiệm Chúa Ba ngôi ( The Triune God=The Holy
Trinity)
Sau hết, cũng
cần nói thêm là các Giáo Hội Đông Phương, dù là Công Giáo hay Chính Thông Giáo
thì đều có các bí tích hữu hiệu như của Giáo Hội Công Giáo La Mã .. Cho nên,
tín hữu Công giáo được phép tham dự các nghi thức phụng vụ và lãnh các bí tích trong
các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương. Nhưng chỉ được tham dự phụng vụ và lãnh bí
tích nơi nhà thờ Chính Thống khi không tìm được nhà thờ Công Giáo nào trong vùng
cư trú của mình.
Ước mong
những giải thích trên thả mãn câu hỏi đặt ra.
Lm.Phanxicô
Xaviê Ngô tôn Huấn