Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Phêrô Phạm Văn Trung
Bài Viết Của
Phêrô Phạm Văn Trung
Mục Tử Nhân Lành đến để chúng ta được sống
“Anh em đến mà ăn!” (Làm sáng tỏ mầu nhiệm của thức ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu)
Một cuộc viếng thăm bất ngờ tuyệt vời
Phục Sinh và Ý Nghĩa Cuộc Đời (Chi tiết từ “Sự phục sinh” (1715) của Sebastiano Ricci.)
Cái chết không chiến thắng
Tin vào Chúa Phục Sinh đòi hỏi một thái độ xác tín
Chúa Kitô trút bỏ mọi vinh quang bằng lòng chịu chết vì yêu thương
Chúng ta là một dân tộc Phục Sinh
Khao khát gặp Chúa Giêsu
Chết đi để sống tình yêu đích thực
Niềm vui trong tình xót thương của Thiên Chúa
Thiên tính hiển vinh của Chúa Giêsu.
Suy niệm và sống Mùa Chay Thánh
Kẻ thù ngày nay và Nước Trời ngày mai
Trở lại cuộc đời thanh sạch
Tin cậy và phó dâng mọi sự cho Chúa
Cầu nguyện suy niệm dành cho những người dễ bị phân tâm
Hơn cả sự chữa lành
Bài học về thẩm quyền
Chúng ta tìm thấy Chúa ở đâu?
CHÚA QUAN TÂM TÔI LÀ AI, NGÀI KHÔNG QUAN TÂM TÔI CÓ GÌ.
VIỆC CHIÊM NIỆM CÓ DÀNH CHO MỌI NGƯỜI KHÔNG?
MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC KÊU GỌI NÊN THÁNH
Đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu
Hãy chọn Chúa Kitô và bước đi theo Ngài
Hãy thờ phượng Đức Vua
Đón Chúa theo gương mẫu của Mẹ Maria
Niềm vui được ánh sáng Chúa Kitô chiếu rọi
Cảm nghiệm niềm vui trong Chúa Kitô
Sám hối, thú tội và thanh tẩy đời sống để đón Chúa đến
Hãy canh chừng, hãy thức tỉnh
VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU CỦA VUA NHÂN LÀNH
ĐỜI SỐNG ĐẠO HẠNH VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT THA NHÂN
TẨY TRẮNG ÁO MÌNH TRONG MÁU CON CHIÊN
LÀM CHO NHỮNG YẾN BẠC SINH LỢI GẤP ĐÔI
TẠI SAO CHÚNG TA LẠI CHẾT?
NGỌN ĐÈN HẾT DẦU VÀ CƠN BUỒN NGỦ
PHỤC VỤ TRONG KHIÊM NHƯỜNG
KINH THÁNH CÓ ĐỀ CẬP DẾN LUYỆN NGỤC KHÔNG?
SỰ HIỆP THÔNG CỦA CÁC THÁNH
TẨY TRẮNG ÁO MÌNH TRONG MÁU CON CHIÊN


 

Trong lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta nhớ về tất cả các nhân chứng mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế” (Kh 7: 9), các Kitô hữu, giám mục, linh mục, tu sĩ dòng Đa Minh, Hội Thừa Sai Paris, giáo dân, phụ nữ và trẻ em, những người đã bị giết bằng những cách thức khủng khiếp nhất trong hàng loạt cuộc đàn áp ở Việt Nam vào thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Có hàng ngàn người - có người nói lên đến trăm ngàn người - đã hiến mạng sống vì Đức Tin, trong đó có 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chính thức phong thánh vào năm 1988. Xin được kể đến Cha Anrê Dũng Lạc, một linh mục Việt Nam, Cha Théophane Vénard - Ven, một linh mục quê nước Pháp, và Đức Cha Melchior Garcia Sampedro – Xuyên, một giám mục quê Tây Ban Nha:

* Thánh Anrê Dũng Lạc là một linh mục địa phận, tên là Trần An Dũng (Lạc), sinh năm 1795 ở miền Bắc Việt Nam, bố mẹ là người ngoại đạo. Năm 12 tuổi, cậu cùng gia đình chuyển ra Hà Nội để bố mẹ tìm việc làm. Một thầy giảng ở đó đã chu cấp cho cậu thức ăn, chỗ ở và giúp cậu được học hành. Dũng được rửa tội và chọn tên là Anrê. Lớn lên cậu trở thành thầy giảng, dạy giáo lý đức tin cho người khác, và cuối cùng được chọn để học làm linh mục. Thầy Anrê được thụ phong linh mục năm 1823. Cha Anrê được biết đến như một nhà giảng thuyết hiệu quả và là tấm gương thánh thiện cho những người mà Cha phục vụ. Khi nhà vua bắt đầu đàn áp những người theo đạo Thiên Chúa, Cha Anrê đã bị bắt hai lần, nhưng các giáo hữu lo tiền để chuộc Cha ra. Lần thứ ba bị bắt, có giáo hữu định cầm cố cả cơ nghiệp lấy tiền mà chuộc Cha và viết thư cho Cha rằng: “Lạy cha! Cha chịu tử vì đạo thì được một mình Cha lên Thiên Đàng, nhưng nếu Cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, xin Cha nghĩ lại”. Người nhà quan cũng đã nói rằng: “Hễ khi có tiền, thì chúng tôi bỏ người vào võng mà võng ra”. Thế nhưng, Cha cấm và nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì quyết vâng ý Đức Chúa Trời định cho tôi làm vậy, đừng chuộc tôi làm gì”. Cha bị xử trảm vào ngày 21 tháng 12 năm 1839 ở bãi ngoài cửa ô Cầu Giấy.

* Thánh Gioan Théophane Vénard Ven, Linh mục Hội Thừa sai Paris, sinh ngày 21/11/1829 tại miền Tây Nam nước Pháp. Thuở nhỏ đã có lòng ao ước làm linh mục nên được cha mẹ gởi vào học Latinh với cha xứ, sau đó, học tại tiểu chủng viện, đại chủng viện và được chịu chức linh mục năm 1852. Cha được sai đi phục vụ địa phận Tây đàng ngoài. Ngày 13/07/1854, thuyền cha cập bến cửa Cấm. Sau vài tháng học tiếng Việt, cha tháp tùng Đức cha đi kinh lý khắp nơi và dạy ở chủng viện. Khi quân lính vây làng, thì từ đầu tháng 03/1857, Cha Ven bắt đầu những ngày tháng lưu lạc, rày đây mai đó không lúc nào yên ổn. Ngày 30/11/1860, nhân lúc cha đang giảng tuần đại phúc tại Bút Sơn, Kim Bảng, viên cai đội đem người đến bắt Cha, nhốt cha vào cũi giải xuống Phủ Lý rồi điệu về Thăng Long. Khi quan ra lệnh: “Hãy đạp lên Thánh Giá anh sẽ thoát chết”. Cha đáp: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập Giá, sao tôi làm như thế được? Tôi thiết nghĩ, sự sống đời này đâu quá quý đến độ tôi phải mua nó bằng cái giá bội giáo”. Ngày 23/12/1860, Cha Ven bị điệu ra xử trảm.

* Thánh Melchior Garcia Sampedro - Xuyên sinh ngày 26/04/1821 tại Arrojo, tỉnh Oviedo, nước Tây Ban Nha. Gia đình ngài thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng đã sa sút đến chỗ nghèo khổ. Năm 21 tuổi, thầy Sampedro học thần học ở Chủng viện Oviedo. Ba năm sau, thầy xin vào dòng Đa Minh để được đi truyền giáo. Sau năm tập, thầy tuyên khấn và chuẩn bị thụ phong linh mục ngày 29/05/1847. Đến Manila, cha Sampedro xin và được cử đến Việt Nam vào tháng 02/1849. Từ nay cha có tên mới là Xuyên. Tháng 03/1850 cha Xuyên được Đức cha Sanjurjo - An đặt làm Giám đốc chủng viện ở Cao Xá. Tháng 7, cha được chọn làm đại diện giám tỉnh. Cha Xuyên cho in nhiều tập sách giáo lý nhỏ cho giáo hữu và quan tâm truyền giáo cho lương dân. Năm 1852, Đức cha An đã chọn cha Sampedro làm giám mục phó. Lễ tấn phong được cử hành long trọng ngày 16/09/1855 tại Bùi Chu. Đức cha Xuyên nhiệt tình trong sứ vụ mới. Riêng năm 1855, địa phận Trung có 35.349 trẻ em được rửa tội. Cuộc bách hại gia tăng, Đức cha Sanjurjo - An chịu tử đạo ngày 20/07/1857. Còn Đức cha Xuyên, dù bị ra giá cao cho ai bắt được, vẫn lén lút đi thăm các họ đạo vào ban đêm. Đề phòng giáo phận sẽ không có chủ chăn, Đức cha Xuyên đã chọn cha Valentino - Vinh làm giám mục phó. Lễ tấn phong của vị giám mục gậy tre mũ giấy được cử hành âm thầm vào ban đêm tại nhà một giáo dân ở Ninh Cường. Ngày 08/07/1858 tại Kiên Lao, Đức cha Xuyên bị bắt cùng hai chú giúp lễ Nguyễn Tiệp và Mai Hiến. Sau 20 ngày trong ngục, Đức cha lãnh án lăng trì ngày 28/07/1858. Trên đường ra pháp trường Bảy Mẫu, một tay cầm sách nguyện, tay còn lại Đức cha giơ cao ban phép lành cho dân chúng. Tuy nhiên cũng có kẻ lấy bùn ném vào ngài. Sau khi hai cậu Tiệp và Hiến đón nhận phép lành của Đức cha, rồi đưa cổ chịu chém, lý hình xô vị giám mục nằm sấp trên chiếu có phủ vải, rồi họ cột chân tay căng vào bốn cọc ở bốn phía, và thêm hai cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy. Đức cha thụ án “xử bá đao”, thi thể được chôn dưới một hố sâu. Thủ cấp thì bêu nơi công cộng ba ngày. Về sau các giáo hữu đưa thi hài Đức cha về an táng tại Phú Nhai. Năm 1888, thi hài của ngài được dời về quê hương Oviedo, nhưng tay phải thì để lại Bùi Chu, còn tay trái được đưa về Manila.

 

Cuộc bắt đạo kéo dài từ năm 1745 đến năm 1862, qua hai đời chúa: Trịnh Doanh (1740-1767), Trịnh Sâm (1767-1782), và bốn đời vua: Cảnh Thịnh (1782-1802), Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883). Cuộc bách hại lâu dài và lan rộng như vậy nhắc nhở chúng ta rằng những người trở lại đạo và thực hành đức tin Công giáo đã làm như vậy với sự hiểu biết đầy đủ về những nguy hiểm mà họ phải đối mặt. Dù sao thì việc họ chọn đi theo Chúa Giêsu cũng cho thấy một đức tin sâu sắc mà nhiều người trong chúng ta khó có thể tưởng tượng được. Phần lớn người Công giáo chúng ta ngày nay không phải mạo hiểm mạng sống của mình khi theo Chúa Kitô, nhưng tuy nhiên, đức tin của chúng ta đang gây tranh cãi và các giá trị của niềm tin mà chúng ta cần phải sống thường bị coi thường. Chúng ta hãy ngắm nhìn các Thánh Tử đạo Việt Nam và cầu nguyện với các ngài để chứng tá Đức tin của các ngài truyền cho chúng ta sự hứng khởi đón nhận những rủi ro nho nhỏ hàng ngày mà chúng ta gặp phải khi sống đức tin của mình, biết rằng phần thưởng cho việc chọn Chúa Giêsu sẽ lớn hơn nhiều so với bất kỳ cuộc bách hại nào chúng ta trải qua trong cuộc đời này.

 

Như Thánh Théophane đã viết cho gia đình ở quê nhà Pháp, không lâu trước khi ngài chịu tử đạo:

· Tất cả chúng ta đều là những bông hoa được trồng trên trái đất này, được Chúa hái vào thời điểm thuận tiện của Ngài: một số sớm hơn một chút, một số muộn hơn một chút . . . Cầu mong cha con chúng ta gặp nhau trên thiên đường. Con, chú sâu bướm tội nghiệp, đi trước. Tạm biệt.

 

Công cuộc truyền giáo trong Giáo hội nói chung, và tại Việt Nam cách riêng, cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng về mọi thứ ở trần gian này diễn ra như thế nào trước khi Chúa Kitô đến lần cuối cùng và sự thật cứu độ của Ngài - khác xa với khu vườn địa đàng thần thoại mà trí tưởng tượng của phàm nhân nghĩ ra. Đúng là luôn có một sự cao quý nào đó trong mọi nền văn hóa, ngay cả những nền văn hóa ngoại giáo nhất, vì Con người, dù ở xa Chúa Kitô, cũng không bao giờ đánh mất phẩm giá cũng như nhận thức của mình về những nguyên tắc cơ bản nhất của luật luân lý. Nhưng nói một cách thành thật, trong một nền văn hóa không có Chúa Kitô có nhiều thứ vô cùng tàn ác, một biểu hiện của nó là những kiểu tra tấn và hành quyết rất ghê sợ. Các vị tử đạo Việt Nam đã phải chịu đựng những điều gần như ngoài sức tưởng tượng. Chẳng hạn, án xử tử mà người dân Việt Nam thường gọi là “tùng xẻo” – nghĩa là đánh một tiếng trống “tùng” thì xẻo một miếng thịt. Đó là một hình phạt được quy định trong Luật Gia long gọi là “lăng trì” hay “xử bá đao”. Điều 1 Luật Gia Long có đoạn nói: Lăng trì là một hình phạt ghê khiếp nhất trong các hình phạt. Quy tắc của xử tội này là người ta khoét 1 tấc thịt trên thân thể tội nhân, róc cho đến khi hoàn toàn hết thịt, liền sau đó, cắt mổ bụng, moi tạng phủ cho đến khi chết hẳn, rồi sau đó cắt lấy tay chân và cắt những khớp xương, đập nát xương sống. Lăng trì là loại cực hình ghê rợn nhất, phạm nhân sẽ vô cùng đau đớn nhưng không thể chết một cách nhanh chóng bởi đao phủ không chỉ có nhiệm vụ xẻo thịt mà còn phải giữ cho tử tội không chết trước khi đạt được số nhát xẻo theo quy định. Trong một số tài liệu, thông thường nạn nhân phải chịu khoảng 3.000 nhát dao thì mới có thể “được” chết. Điều này hoàn toàn có thật nơi rất nhiều nạn nhân, bị xẻo từ từ cho đến chết trước mắt những người chứng kiến. Các thánh sau đây đã chịu án “phân thây” này:

 

1. Thánh Gioan Du (Joseph Marchand), sinh năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, bị xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới đời vua Minh Mạng.

2. Cha thánh Gioan Tân (Jean Charles Cornay), sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử lăng trì ngày 20/09/1837 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng.

3. Thánh Augustinô Phan Viết Huy, sinh năm 1795 tại Hạ Linh, Bùi Chu, binh Sĩ, Giáo dân dòng ba, bị xử lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng.

4. Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, sinh năm 1792 tại Kiên Trung, Bùi Chu, Giáo dân, binh sĩ, bị lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng.

5. Thánh Giuse Melchor Xuyên (Garcia Sampedro), sinh năm 18211 tại Cortes Asturias, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, bị xử lăng trì ngày 28/07/1858 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức.

 

Điều này không làm các vị tử đạo lo sợ, sâu xa trong tinh thần của họ. Khi cha Vénard được dẫn đi tử đạo, tên đao phủ hỏi vị linh mục rằng ngài sẽ cho hắn cái gì để cái chết của ngài được nhanh chóng. Théophane bình tĩnh trả lời, “càng lâu càng tốt.”

 

Chúng ta hẳn kinh ngạc về việc này, nhưng một người luôn hướng mắt về thiên đàng, thì sự đau khổ về thể xác sẽ không đáng kể nữa, và nỗi sợ hãi được tình yêu biến đổi. Đó là một điều đáng suy ngẫm trong cuộc sống hàng ngày nhiều khó khăn của chúng ta. Như một trong các vị tử đạo, Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh (1793 - 1857), khi còn là thầy ở chủng viện, bị giam cầm lâu ngày trong lao tù tại Hà Nội, vì thương nhớ Chủng viện Kẻ Vĩnh, nên ngày 24-4-1843 đã gửi thư cho các cha và anh em chủng sinh:

· Tôi, Phaolô, đang bị xiềng xích vì Chúa Kitô, từ chốn lao tù xin gửi lời kính thăm anh em. Nguyện xin Cha nhân ái và Chúa giàu lòng khích lệ đến an ủi anh em trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chớ gì phép lành của Chúa sẽ là sương sa thấm gội và vun trồng việc học hành, gia tăng mức tiến cả về tu đức, cả về kiến văn, để anh em mau đạt tới chỗ hoàn hảo, thành tài. Có như thế qua anh em, người bên lương sẽ được chúc phúc và họ sẽ được bảo toàn hương thơm tốt lành của anh em.  

 

Thánh nhân chia sẻ:

· Nhà tù ở đây thực là hình ảnh của địa ngục: trước những hình thức tra tấn dã man – gông cùm, xiềng xích – có thêm hận thù, trả thù, vu khống, nói năng tục tĩu, cãi vã, hành động xấu xa, chửi thề, cũng như đau đớn và thống khổ.

 

Nhưng ngài kết luận, với niềm hy vọng và thậm chí với một mức độ hạnh phúc nội tâm nào đó mà chỉ có đức tin trọn vẹn của Công giáo mới có thể mang lại:

· Giữa những cực hình thường làm người khác khiếp sợ, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, tôi tràn đầy niềm vui và hân hoan, vì tôi không cô đơn – Chúa Kitô ở cùng tôi. Thầy của chúng ta mang toàn bộ sức nặng của thập giá, chỉ để lại cho tôi chút nhỏ nhất, cuối cùng. Ngài không chỉ là người đứng xem trong cuộc chiến đấu của tôi mà còn là một thí sinh, người chiến thắng và vô địch trong toàn bộ trận chiến. Vì vậy, trên đầu Ngài đội mão triều thiên chiến thắng, và các thành viên của Ngài cũng được chia sẻ vinh quang với Ngài.

 

Giữa những khó khăn, giông bão và thậm chí cả những cuộc bách hại, chúng ta ghi nhớ trong tâm trí tấm gương cao cả của đội quân tử đạo mặc áo trắng này, vì “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8: 31). Thiên đàng đang chờ đợi, và chúng ta phải kết thúc cuộc hành hương cùng với Đấng Cứu Độ, dù cuộc hành hương đó có thể dẫn đến đâu, cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố trong bài giảng Lễ tuyên thánh 117 vị tử đạo Việt Nam, ngày 19 tháng Sáu năm 1988: “Thánh Thần, Thần chân lý, Ngài sẽ là sức mạnh thay cho sự yếu đuối của anh em. Anh em sẽ làm chứng bằng sức mạnh của Ngài. Chính sự kiện anh em phải làm chứng cho Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá, lại chẳng cần đến sự khôn ngoan và sức mạnh vượt trên sức mạnh loài người sao? Khi Thánh Tông đồ viết rằng thập giá “là sự ô nhục đối với người Do Thái và điên rồ đối với người Hi Lạp” (1Cr 1,23), lại chẳng phải là nói về Chúa Kitô sao? Đã xảy ra như thế vào thời các Tông đồ. Cũng lặp lại như thế trong những thời kỳ khác nhau của lịch sử, ở những nơi chốn và thời điểm khác nhau. Cũng xảy ra như thế vào thời bách hại tôn giáo chống lại các Kitô hữu Việt Nam. Do đó, cần phải có sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa để loan báo mầu nhiệm tình yêu này của Thiên Chúa, nghĩa là ơn cứu chuộc trần gian nhờ thập giá: mầu nhiệm vĩ đại nhất, đồng thời là điều không thể hiểu được về mặt nhân loại. “Bởi vì cái điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn sức mạnh loài người” (1Cr 1,25). Chính vì thế Thánh Tông đồ viết: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá”: Chúa Kitô mà cụ thể trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài, chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,23-24). Vâng. Như của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế thập giá của Chúa Kitô. Thật vậy, cách riêng với các ngài, thưa Các Vị Tử đạo Việt Nam, các ngài đã loan báo đến cùng Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá, là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta hướng về Chúa Kitô, nhờ Chúa Kitô, chúng ta đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cầu cho chúng con!

 

Phêrô Phạm Văn Trung.

Tác giả: Phêrô Phạm Văn Trung

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!