Đặt
vấn đề:
Từ
bao đời ngay, trong gia đình, ngoài xã hội, cũng như trong các tôn giáo, ta thường
được nghe lời khuyên: mọi người hãy sống hiền lành.
Trong
gia đình con cái mong cha mẹ hiền lành vì ông cha ta từng dạy:
“Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha
mẹ hiền lành để đức cho con”.
Ngược
lại ông bà, cha mẹ thì mong:
“Con
hiền cháu thảo;
Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”.
Giữ
gìn được mối tương quan như thế, gia đình được ấm êm hạnh phúc, góp phần cho sự
phồn vinh của đất nước, vì chính gia đình là nền tảng của xã hội.
Ngoài
xã hội, người dân mong người lãnh đạo phải hiền lành, đức độ, lấy đức mà trị nước
để đất nước an bình thịnh vượng. Điều đó đã được Khổng Từ (551- 479 TCN) khởi
sướng với luận điểm: “Chính trị là đạo đức”. Khổng Tử nói: “Trị dân mà dùng
đức thì như sao Bắc Đẩu, ở mọi nơi các ngôi sao khác đều hướng về”. Trong
khi đó, người dân cần sống hiền lành bằng cách: “Thượng tôn pháp luật”. Có
như thế, đất nước mới phát triển thịnh vượng trong an bình.
Còn
trong đạo Công giáo thì hiền lành là mối phúc thứ hai trong tám mối phúc, chính
Chúa đã hứa: “Thứ hai: ai hiền lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được đất Đức
Chúa Trời làm của mình vậy”.
Vậy
đức tính hiền lành là gì? Nó gây ảnh hưởng trên con người và xã hội ra sao, mà được
cả xã hội và tôn giáo cùng quan tâm đến thế? Ta tìm hiểu.
Hiền
lành là gì?
Theo
tự điển Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam thì hiền lành là: “tỏ ra rất hiền trong
quan hệ đối xử với người khác, không hề có những hành động trực tiếp gây hại
cho bất kỳ ai.”
Còn
Đức Thánh Cha Phanxicô sáng ngày 19-02-2020, ở phần suy niêm trước 8000 tín hữu
hiện diện trong đại thính đường Phaolô VI, trong đó có một số người Việt Nam, Ngài
cho biết: “Người hiền lành là người bình tĩnh, đơn giản, nhẹ nhàng, ngọt
ngào, dịu dàng, lịch sự, không có bạo lực. Sự hiền dịu được thể hiện trong những
khoảnh khắc xung đột, nó được nhìn thấy qua cách người ta phản ứng trước một
tình huống thù nghịch, không cãi vã với ai, được người khác quí mến, và chiến
thắng sự giận dữ”. Cũng trong phần suy niệm, Đức Thánh Cha còn cho biết
thêm: “Người hiền lành không hèn nhát yếu đuối; hiền lành qui tụ, còn giận dữ
chia cách; hiền lành xây dựng tình thân, chiếm được trái tim người khác”.
Hiền
lành có ý nghĩa gì trong xã hội và trong tôn giáo.
Ý
nghĩa của hiền lành trong xã hội.
Từ
bao đời nay, nhân loại từ Đông sang Tây, người hiền ở mọi nơi, mọi ngành nghề,
mọi tầng lớp xã hội như mẹ hiền, cha hiền, con hiền, thầy hiền, trò hiền, chủ
hiền, dân làng hiền, vua hiền luôn được tôn trọng, và yêu quí. Chính vì thế qua
bao đời, ông cha ta đã tin rằng “ở hiền gặp lành”, và có chính sách “Chiêu
hiền đãi sĩ”. Vì “Hiền tài
là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh,
nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp kém” (Tiến sĩ triều Lê, Thân Nhân
Trung 1442). Một vài
minh họa: vua Quang Trung phải 4 lần đến núi Thúy để cầu hiền tài Nguyễn Thiếp
ra giúp nước. Cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, người nổi tiếng khắp thế giới
trong việc “chiêu hiền đãi sĩ” đã đưa Singapore trở thành con rồng châu Á. Ông
nói “Muốn có hiền tài, thì người hoạch định chính sách phải là người hiền
tài”. Ông còn cảnh báo: “Lãnh đạo dốt, sẽ ngáng chân người giỏi, hiền
tài”.
Nhìn
rộng và xa hơn: thời Tam Hoàng Ngũ Đế, thời kỳ lịch sử đầu tiên của Trung Quốc
với các vị vua nổi tiếng hiền như Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế
Thuấn (2852 TCN-2205 TCN). Những tấm gương trị quốc hiền từ còn lưu danh kim cổ,
trong đó nổi bật nhất là vua Nghiêu và vua Thuấn. Điều đó đã được Khổng Tử ngợi
ca trong sách Luận Ngữ: “làm vua như Nghiêu thật là vĩ đại thay! Thật là cao
quí thay! Chỉ có Trời là cao quí nhất. Công đức của Nghiêu to lớn không cùng,
dân chúng không thể ca ngợi cho xiết. Công lao của Nghiêu vô cùng vĩ đại. Chế độ
lễ nhạc do Nghiêu đặt ra vô cùng sáng tỏ, chiếu tỏa hào quang khắp mọi nơi”. Ta
còn thấy ngay bên trong Điện Thái Hòa ở Huế, Việt Nam, trên ngai vị có bài thơ
ca ngợi các vị vua Nghiêu Thuấn:
“Văn
hiến ngàn năm dựng
Núi
sông vạn dăm xa
Hồng
Bằng thưở lập quốc
Nghiêu
Thuấn vững sơn hà”
Một
chi tiết đáng lưu ý của Vua Nghiêu là ông không truyền ngôi cho con trai Đan
Chu, mà lại truyền ngôi cho con rể hiền là Thuấn. Đúng là “Dâu hiền hơn con
gái, rể hiền hơn con trai”.
Còn
tại Việt Nam, Vua Lê Thánh Tông là vị vua hiền được mọi thời công nhận, và gần đây
báo Nhân Dân ngày 06-12-2016 còn nhắc lại. Vua Lê Thánh Tông sinh năm1442, và mất năm 1497.
Ông được tôn lên ngôi vua lúc 18 tuổi, trị vì 38 năm với hai niên hiệu
là Quang Thuận (1460 - 1469).
Về bản thân
mình, vua hiền Lê Thánh Tông đã bày tỏ trong một bài thơ Nôm:
“Lòng vì
thiên hạ lo âu
Thay việc
trời dám trễ đâu
Trống rời
canh còn đọc sách
Chiêng xế
bóng chửa thôi chầu..”.
Cuộc đời của vua hiền Lê Thánh Tông được nhà nghiên
cứu văn hóa An Chi nhận định như sau: “Lê
Thánh Tông là nhà văn hóa kiệt xuất của nước Việt ta. Và có lẽ,
trên hết cả, bao trùm tất cả, là tấm lòng ông, là ý thức trách
nhiệm của ông trước dân tộc và đất nước. Ước vọng và hoài bão của
thiên tài Lê Thánh Tông là Thiên Nam vạn cổ sơn hà tại. Đó là câu
thơ trong bài thơ khắc trên đá núi Bài Thơ, Quảng Ninh. Thơ viết hơn năm
trăm năm trước chắc mãi còn rung động lòng người hậu thế, bởi thơ ấy
mang khẩu khí của một bậc đế vương hiền tài và chan chứa xúc cảm
nhân văn của một tâm hồn lớn!” (Báo Nhân Dân ngày
06-12-2016, nhà nghiên cứu văn hóa An
Chi)
Một câu chuyện khá thú vị khi tìm
hiểu về vua Lê Thánh Tông.
Chuyện kể rằng: đêm 30 Tết, nhà vua giả là một thư sinh nghèo của trường
Quốc Tử Giám, tìm đến tên trộm khét tiếng có tên là Quận Gió để xin tiền về quê
thăm gia đình. Quận Gió thương tình muốn giúp đỡ, nhưng không có tiền để cho
thư sinh nghèo. Thư sinh đề nghị ăn trộm của hai ba người, thì đều bị Quận Gió
từ chối, vì cho rằng những người đó toàn làm ăn lương thiện, không nên lấy của
họ. Cuối cùng Quận Gió nói: “Thôi để tôi đến nhà
lão quan coi kho bạc nhà vua ở phố cửa Bắc chôm cho ông vài nén. Lão ấy hay ăn
trộm bạc trong kho đem về nhà. Đó là những thứ không phải của hắn”. Nói
rồi, ông ta lao vào màn đêm. Một lát sau, Quận Gió mang về hai nén bạc dúi vào
tay cậu thư sinh nói: “Hy vọng sau này, cậu sẽ làm rạng danh tổ tiên”. Sáng
mùng một Tết, trong buổi khai triều, vua Lê Thánh Tông đem câu chuyện vi hành
kể cho các đại quan nghe. Hai nén bạc được truyền tới tay các quan để được xem
tận mắt. Viên quan coi kho tối sầm mặt mũi, không thanh minh được lời nào. Ông
ta bị cách chức, tịch thu gia sản và đày đi biên ải. Còn Quận Gió được nhận tấm
biển vàng đề ba chữ vua ban: “Trộm quân sử”.
Ý nghĩa cùng quan điểm về hiền lành bên tôn giáo.
Đạo Công giáo:
Ta cùng tìm hiểu lời dạy của Chúa Giêsu: “Hãy
học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường.” (Mt 11, 29). Chúa Giêsu là Thiên Chúa, với quyền phép vô biên.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã sống hết mực hiền lành và khiêm nhưng. Chúa đã vâng
lời Chúa Cha, xuống trần gian, mang thân phận con người, được sinh ra nơi hang
đá Belem lạnh lẽo, giá rét, nghèo hèn. Chúa đã là người con thảo hiếu, hiền
lành dưới sự che chở của Mẹ Maria, và thánh cả Giuse, vị cha nuôi khả kính,
Đấng công chính, trong một gia đình thánh hiền lành tại Nazareth. Chúa đã chịu
bao cực hình, và sau cùng chịu đóng đinh chết trên thấp giá. Điều đó, đã được thánh
Phaolô viết như sau: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là
Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân,
sống như người trần thế. Người lại hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu
chết, chết trên thập giá” (Pl2, 6-6).
Quan điểm của Phật giáo về người hiền, người ác.
“Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại vườn ông
Anàthapindika, Thôn trưởng Canda đi đến.
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì có người được
gọi là tàn bạo, có người được gọi là hiền lành?
- Ở đây, này Thôn trưởng, có người tham, sân, si
chưa được đoạn tận, người ấy bị người khác làm cho phẫn nộ. Do bị người khác
làm cho phẫn nộ, nên phẫn nộ hiện hành. Người ấy do vậy được gọi là người tàn
bạo.
Này Thôn trưởng, đây là nhân, là duyên có người
được gọi là tàn bạo.
Nhưng ở đây, này Thôn trưởng, có người thâm, sân,
si được đoạn tận. Do tham, sân si được đoạn tận, người ấy không bị người khác
làm cho phẫn nộ. Do không bị người khác làm phẫn nộ, nên phẫn nộ không hiện
hành. Người ấy do vậy được gọi là hiền lành.
Này Thôn trưởng, đây là nhân là duyên có người được
gọi là hiền lành” (Kiến thức
Giáo hội Phật giáo Việt Nam 12-05-2020)
Tạm kết
Từ những tìm hiểu và phân tích về các giá trị của
sự hiền lành nêu trên, ta có thể nói: hiền lành là một trong những đức tính cao
quí có giá trị nhất được gia đình, xã hội cũng như tôn giáo luôn được trân
trọng. Người hiền lành luôn được trọng dụng, và đem lại lợi ích cho gia đình
cùng xã hội. Nhưng muốn trở nên hiền lành đòi hỏi mỗi người phải học hỏi điều
ngay lẽ phải theo lương tâm và trí khôn mách bảo. Sau khi đã hiểu cặn kẽ, điều
quan trọng là thực hành, sống hiền lành trong gia đình, gia tộc, làng xóm cùng
xã hội. Đó, xem ra dễ về phương diện lý thuyết. Nhưng thực tế, để trở thành
người hiền lành thật khó. Điều đó đòi hỏi chúng ta ngoài sự luôn học hỏi, còn
cần phải quyết tâm từ bỏ tính tự cao tự đại, thói ích kỷ, vô cảm trước nỗi đau
của tha nhân, chỉ nghĩ đến mình, và cho mình là số một.
Với người Công giáo thì cần cầu nguyện và luôn khắc
ghi lời Chúa dạy:
“Hãy
học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11, 29).
Inhaxiô Đặng Phúc Minh