Để làm rõ:
Nét văn hoá nơi các xứ đạo Công Giáo, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam, chúng ta tìm hiểu hai vấn đề:
1. Khái quát đôi nét về văn hoá; một vài định nghĩa căn bản về văn hoá.
2. Các xứ đạo Công Giáo đã làm được gì để nền văn hoá Việt Nam phong phú?
Khái quát đôi nét về văn hoá; một vài định nghĩa căn bản về văn hoá.
Khái quát đôi nét về văn hoá.
Hai từ văn hoá đã có từ lâu đời và ở khắp mọi nơi trên thế giới. Người ta mặc nhiên thừa nhận mỗi quốc gia đều có một nền văn hoá riêng biệt. Việt Nam có nền văn hoá khác với Lào, Thái Lan, Campuchia…Dù đây là ba nước về mặt địa lý đứng bên nhau, có khá nhiều điểm tương đồng với nhau. Trung Quốc cổ đại đã coi văn hoá là phương thức giáo hoá con người “văn trị, giáo hoá”. Mỗi nước trong một giai đoạn lịch sử lại có nền văn hoá khác nhau. Việt Nam có các thời kỳ văn hoá như: Văn hoá thời đại đồ đá cũ; văn hoá thời đồ đá mới; văn hoá thời đại đồ đồng đá; văn hoá thời đại đồ đồng; văn hoá thời kỳ đồ sắt… Trong giai đoạn văn hoá thời kỳ đồ sắt lại bao gồm: Văn hoá Đông Sơn; văn hoá Sa Huỳnh; văn hoá Đồng Nai; văn hoá Óc Eo. Ngày nay, có văn hoá du lịch, văn hoá ẩm thực, văn hoá trang phục, văn hoá kiến trúc, văn hoá giao thông, văn hoá ứng xử…
Nhiều nước phương tây như Pháp, Anh thì người ta dùng từ culture; người Nga dùng từ kyltypa; người Đức dùng từ kultur để chỉ văn hoá. Những từ trên đều có chung nguồn gốc từ tiếng Latinh là cultus animi có nghĩa là “trồng trọt tinh thần”.
Như thế, văn hoá chiếm mọi lãnh vực hoạt động có giá trị trong đời sống tinh thần cũng như vật chất của con người.
Từ bao đời nay, văn hoá đã để lại bao cách nhìn nhận, quan điểm, tham luận, hội thảo, tranh luận khác nhau của con người. Xem ra, những điều đó vẫn chưa có hồi kết! Tuy nhiên nhân loại cũng đã thống nhất với nhau về văn hoá qua một số định nghĩa…
Một vài định nghĩa căn bản về văn hoá.
Chính vì văn hoá quá phong phú, lại có những nhìn nhận khác nhau, nên đã nảy sinh ra biết bao định nghĩa về văn hoá. Năm 1952 hai nhà khoa học Mỹ là Alfred kroeber và Clyde Kluckhohn đã thống kê có tới 164 định nghĩa về văn hoá (nguồn Wikipedia)
Xin giới thiệu ba định nghĩa có tính đại diện về văn hoá:
Định nghĩa văn hoá theo Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam.
“Văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử
” Đinh nghĩa văn hoá theo Unesco
Năm 2002 Unesco đã đưa ra định nghĩa về văn hoá như sau:
“
Văn hoá nên được đề cập đến như một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.” (nguồn Wikipedia) Định nghĩa theo Công Đồng Vaticanô II
“
Văn hoá chỉ tất cả những gì con người có thể sử dụng để trau dồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả trái đất bằng tri thức và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở thành nhân đạo hơn nhờ sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau hết diễn tả, thông truyền trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của thời đại, để giúp con người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn”(Giáo Hội trong thế giới ngày nay, chương II, cổ vũ việc phát triển văn hoá, Vaticanô II)
Các xứ đạo Công Giáo đã làm được gì để nền văn hoá Việt Nam phong phú ?
Xứ đạo làm phong phú những giá trị văn hoá tinh thần:
Đạo Công Giáo đã hiện diện tại Việt Nam từ năm 1533, tính đến nay gần 5 thế kỷ.
Ngày nay, số người Việt Nam theo đạo Công Giáo đã có trên 7 triệu người thuộc 26 giáo phận, nơi hàng ngàn xứ đạo ở rải rác khắp nơi trên 63 tỉnh thành của Việt Nam.
Ta có thể nói, ngày nay nét văn hoá của đạo Công Giáo đang được thể hiện khá đầy đủ nơi các xứ đạo của Việt Nam, từ nông thôn đến thành thị; từ đồng bằng đến rừng núi cao nguyên; từ người Kinh đến người Thượng; từ người Mông đến người Nùng, từ người Dao đến người Thái. Gia đình giáo xứ được đoàn ngũ hoá các giới, từ giới ấu nhi đến giới thiếu nhi; từ giới gia trưởng đến giới hiền mẫu…cùng với các phong trào và đoàn hội. Tất cả đều được học những nội dung phù hợp với lứa tuổi như lớp dự bị hôn nhân, lớp vào đời I vào đời II; “học sống làm con người và làm con Chúa”; lớp nhân bản... Nhờ đó ta thấy nơi giáo xứ ít ly dị, ít tệ nạn xã hội.
Văn hoá nơi xứ đạo làm cầu nối hai nền văn hoá Đông Tây
Văn hoá Công Giáo, lịch sử, tuy có những giai đoạn thăng trầm đáng tiếc đã xẩy ra trong quá khứ, nhưng ngày nay, văn hoá Công Giáo đã gắn bó với văn hoá Việt, hoà quyện với văn hoá Việt. Nó đã được Việt hoá một cách tài tình đến khắng khít, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam, tạo cầu nối làm bớt đi những dị biệt cố hữu giữa hai nền văn hoá Đông và Tây.
Chính giới răn “Yêu Thương” là cội nguồn của những thành quả đó.
Trước năm 1533 người Việt mới biết cầu Trời khấn Phật mỗi khi gặp những tai ương vạ gió, để mong được ấm no hạnh phúc:
“Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp
lấy nếp nấu xôi..”
(Đồng dao).
Từ khi đạo Công Giáo đến, người giáo dân được biết rõ ràng qua Thánh Kinh và lời diễn giải của các nhà truyền giáo thì ông Trời đó chính là Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ đó, văn hoá tín ngưỡng Việt có cơ duyên vừa mở rộng, vừa đi tới cội nguồn của vũ trụ nhân sinh, tim gặp được Đấng Vua vũ trụ muôn loài, để tôn thờ Ngài, và chỉ một mình Ngài, bớt đi bao mê tín dị đoan, lầm lạc đáng tiếc đã diễn ra trong quá khứ.
Ngoài ra, các nhà truyền giáo khi giảng đạo gặp bao khó khăn về chữ viết. Chữ Nôm, chữ Nho chỉ dành cho người có học thức. Chữ nào dành cho giới bình dân đây? Ngày đó Việt nam 100% là nông dân. Chính những thao thức đó đã giúp Cha cố Alexandre De Rhodes (1591-1660) “việt hoá” các mẫu tự Latinh thành chữ quốc ngữ trong cuốn tự điển Việt-Bồ-La. Một thứ chữ người bình dân nơi các giáo xứ chỉ cần học ba tháng là đọc thông viết thạo. Đây quả là công trình văn hoá trọng đại bậc nhất của người Việt, nó làm phong phú cho nền văn hoá nước nhà biết bao!
Tiếng chuông nơi giáo đường.
Một điểm nữa là tiếng chuông chùa sáng chiều trầm buồn ngân toả khắp nơi như để cảnh tỉnh chúng sinh phải hồi tâm nhớ rằng “đời là bể khổ”, với 108 nỗi phiền não, đau khổ: Sinh, lão bệnh, tử ... Vì thế cần phải diệt “tham sân si” tức là phải bỏ tham lam, bỏ tức giận ghen ghét, bỏ si mê say đắm, trở về với chính cõi lòng của mình để có an vui, có hạnh phúc. Trong khi đó tiếng chuông nhà thờ nơi các xứ đạo sáng chiều thánh thót ngân vang khắp nơi như hối thúc mọi người mau hồi tâm, tỉnh thức. Tiếng chuông còn hối thúc ta trổi dậy và đi loan báo tin vui Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến trần gian, Ngài đã chịu chết và sau ba ngày, Người đã sống lại, và Ngài sẽ đến trần gian trong ngày tận thế. Tiếng chuông nơi xứ đạo hối thúc mọi tín hữu mau đem vui mừng và hi vọng đó đến cho anh em ta.
Về mặt kiến trúc, hàng ngàn ngôi Thánh đường nơi các xứ đạo ở Việt nam với nét kiến trúc đa dạng, phong phú từ cổ kính đến hiện đại đã làm phong phú nét kiến trúc của người Việt qua mấy thế kỉ qua như: Nhà thờ Sa Pa (Lào Cai 1895), nhà thờ Hà Nội (năm 1887), nhà thờ Phú Nhai (Nam Đinh 18860), nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình 1899), nhà thờ Đức Bà (TP. HCM 1865)… đã để lại đấu ấn đậm nét trong lòng du khách. Nơi mỗi giáo xứ, ta còn gặp nét văn hoá độc đáo là các nghĩa trang. Gần như mỗi giáo xứ đều có một nghĩa trang, và cố gắng làm cho nghĩa trang đó ngày một văn minh hơn, bình đẳng hơn, xanh sạch đẹp hơn. Đã có những nghĩa trang trở thành nghĩa trang công viên, thật văn minh và hiện đại.
Cùng nhìn lại thực tại đau buồn trong đời sống nơi một số gia đình hiện nay
Sự ly hôn và Phá thai
Qua các phương tiên thông tin đại chúng hiện nay, giúp chúng ta thấy rằng ở các nước phương tây việc ly di đã trở nên quá phổ biến; hôn nhân đồng tính cũng đã bị một số nước tiên tiến chấp thuận… Ngay cả những gia đình Công giáo việc ly dị cũng thường xẩy ra, mặc dù giáo luật của đạo Công Giáo không cho phép.
Việc ly di ở Việt Nam được luật pháp cho phép. Các cuộc ly dị ở Việt Nam ngày một nhiều hơn. Tôi xin trích dẫn phần sưu tầm của Lm Thái Hiệp, O.P trong chia sẻ Tin Mừng tháng 12 năm 2013 của Huynh đoàn Đa Minh Việt Nam bài:
“Gia đình hai tiếng thiêng liêng” để làm rõ vấn đề trên:
“Ngon nến gia đình leo lét trong bão giông: Theo thống kê, chỉ tính riêng năm 2012 ở Việt Nam đã có gần 100.000 vụ ly hôn, con số này chiếm gần 35-40% tổng số đôi hôn nhân ở Việt Nam trong năm. Điều đáng nói là trong số đó có hơn 70% là số gia đình trẻ (tuổi 22-30). Theo phóng viên Ben Bland của tờ Financial Times, Radio Australia, số vụ ly hôn ở Việt Nam ngày càng gia tăng nhanh. Điều đáng nói là số vụ ly hôn ở Việt Nam đã tăng gần gấp đôi chỉ trong vòng 5 năm, từ 53.000 vụ trong năm 2005 lên đến 90.000 vụ trong năm 2010. Thêm nữa, trung bình ở nước ta mỗi năm có khoảng 300.000 ca nạo phá thai, trong đó độ tuổi 15-19 chiếm khoảng 60-70 %”. Những con số trên đây thật đáng để cho chúng ta suy nghĩ.
Sự ly hôn. Nạn phá thai, nam nữ ăn cơm trước kẻng, hay sống thử ở nước ta từ năm 2013 đến nay đã không giảm đi, mà ngày còn gia tăng. Theo thông tin thì hàng năm hiện tại ở nước ta đã có tới hàng triệu ca phá thai. Ở các xứ đạo toàn tòng trước đây không hề có việc ly dị nơi các gia đình, thì ngày nay vấn đề ly dị đã xâm nhập vào các gia đình nơi xứ đạo, một thành lũy kiên cố bảo vệ hạnh phúc gia đình. Thật đau lòng!
Đứng trước thực trạng đáng báo động về gia đình, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã có chương trình mục vụ với chủ đề về gia đình cho ba năm từ 2016 đến 2019 gởi đến 26 giáo phận trên toàn quốc. Xin trích dẫn trong bài: “Lẽ cưới thật to, trách nhiệm còn nhỏ” của tác giả:
“Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN), gởi Cộng đồng Dân Chúa ngày 07 tháng 10 năm 2016, đã đưa ra chủ đề Mục vụ gia đình ba năm:
- Năm 2016-2017: Chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân;
- Năm 2017-2018: Đồng hành với các gia đình trẻ;
- Năm 2018-2019: Đồng hành với những gia đình gặp khó khăn.
Năm 2016-2017, các Ngài đã nêu rõ tầm quan trọng, và một số điều đáng tiếc về hôn nhân đang diễn ra trong cuộc sống hiện tại nơi một số người trẻ: “Kết hôn là một quyết định rất quan trọng, vì thế cần phải được chuẩn bị chu đáo hết sức có thể. Trong thực tế ngày nay, một số người trẻ chỉ quan tâm đến việc tổ chức lễ cưới thật lớn, mà không hiểu biết đầy đủ về trách nhiệm trong đời sống hôn nhân. Một số khác, vì vất vả với việc mưu sinh, ít có thời giờ để chuẩn bị kỹ lưỡng cho đời sống hôn nhân họ sắp bước vào”.
Xem như thế thì, nét văn hoá nơi các xứ đạo không những đã có những đóng góp rất cụ thể hữu ích làm phong phú nền văn hoá Việt Nam như nói trên, mà còn tìm cách góp phần tích cực trong việc xây dựng nền văn hóa mang tính nhân văn, tôn trọng quyền sống của con người, tôn trong tự do trong tinh thần trách nhiệm cao với bản thân, với gia đình và với cộng đồng với ứơc mong xã hội Việt Nam văn minh tiến bộ.
Tôi vẫn nhớ mãi lời dạy bảo của cha giáo Mt Hoàng Đình Ninh Đại chủng viện Cần Thơ là:
“Giáo xứ phải là cộng đoàn niềm tin; cộng đoàn cầu nguyện; cộng đoàn bác ái yêu thương; và cộng đoàn Loan Báo Tin Mừng”.
Vâng, vẫn biết rằng: Một con én không dựng nổi được mùa xuân, nhưng muốn có mùa xuân thì hiển nhiên phải do nhiều chánh én cùng tung bay.,.
Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh