Irène Laure (1898 – 1987).
Bài viết của : Đoàn Thanh Liêm
Giữa hai dân tộc nước Pháp và nước Đức đã từng có một sự hận thù nặng nề ghê gớm
kéo dài trong nhiều thế hệ, phát sinh từ ba cuộc chiến tranh liên tục, bắt đầu
từ năm 1870 với cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (franco-prussian war), rồi đến đệ
nhất thế chiến 1914 – 1918, và sau cùng là đệ nhị thế chiến 1939 – 1945. Nhưng
kể từ giữa thập niên 1950, hai nước này đã vượt qua được sự thù hận ân oán lâu
đời đó, để mà cùng hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm góp phần cực kỳ quan trọng vào
việc xây dựng được một khối thị trường chung Âu châu (European Common Market).
Và rồi tiến tới thêm một bước kỳ diệu nữa, đó là thiết lập được một thực thể
chính trị kinh tế quan trọng bậc nhất trong thế giới hiện đại, tức là tổ chức
Liên Hiệp Âu châu (European Union EU), mà hiện gồm có 27 quốc gia thành viên,
với dân số tổng cộng là 500 triệu người, với đơn vị tiền tệ chung gọi là đồng
euro, và tổng sản lượng quốc gia GDP lên đến 20 ngàn tỷ dollar (20 trillion).
Sự hòa giải và hợp tác giữa hai quốc gia cựu thù này có thể được coi là một sự
kiện nổi bật nhất trong lịch sử của Âu châu nói riêng, cũng như của cả thế giới
nói chung, trong thời cận đại kể từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt vào năm 1945,
cho đến đầu thế kỷ XXI của chúng ta ngày nay. Cái thành tựu vĩ đại và ngoạn mục
như thế là do sự đóng góp về cả trí tuệ và về cả tâm hồn của biết bao nhiêu nhân
vật xuất chúng từ phía cả hai dân tộc Pháp và Đức. Và bài viết này xin được ghi
lại cái quá trình phục hồi và xây dựng hết sức tích cực của một số nhân vật kiệt
xuất đó.
Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày sơ lược về bối
cảnh lịch sử tại khu vực Tây Âu, trước khi mô tả chi tiết về tiến trình hòa giải
và hợp tác của hai nước Pháp và Đức trong nửa sau của thế kỷ XX.
I – Bối cảnh lịch sử cận đại tại Tây Âu.
Như ta đã biết vào năm 1870, nước Pháp do Napoleon III lãnh đạo đã bị thất trận
nhục nhã trước đội quân tinh nhuệ của nước Phổ (Prussia) dưới thời cầm đầu của
thủ tướng Bismarck. Việc thất trận này đưa đến sự thóai vị của Hòang Đế Napoleon
III và sự giải thể của nền Đệ nhị Đế chế ( the Second Empire) và sự ra đời cùa
nền Đệ Tam Cộng Hòa ( the Third Republic) của nước Pháp. Nhưng nước Pháp lại còn
mất cả vùng đất Alsace-Lorraine ở phía đông bị chuyển vào tay người Đức - (do
nước Phổ sáp nhập hợp thành nước Đức thống nhất vào đầu thập niên 1870)-. Đây là
cả một nỗi cay đắng hận thù sâu đậm của dân Pháp đối với người Đức. Chỉ cần đọc
bài viết “ Buổi học cuối cùng” (La derniere classe) của nhà văn Alphonse Daudet,
ta cũng đủ thấm thía cái nỗi niềm tủi nhục uất hận của người dân Pháp trong vùng
đất bị tước đọat này.
Tiếp theo vào năm 1914 - 18, lại xảy ra cuộc thế chiến thứ nhất giữa phe Đức –
Áo và phe Đồng Minh do Pháp – Anh đứng đầu. Cuộc chiến tranh này gây thiệt hại
rất nặng cho cả hai nước Đức và Pháp. Vì Đức cuối cùng bị thua trận, nên vùng
đất Alsace-Lorraine lại trở về với Pháp. Nhưng vì nước Đức bại trận bị đối xử
quá khắc nghiệt, nên người Đức thật bất mãn, hận thù phe Đồng Minh, đặc biệt đối
với dân tộc láng giềng là Pháp.
Cho nên, đến năm 1939 lại xảy ra thế chiến thứ hai rất tàn bạo khủng khiếp, mà
bắt đầu vào năm 1940 nước Pháp thua trận và bị quân đội Đức quốc xã của Hitler
chiếm đóng với sự đàn áp hết sức tàn bạo khốc liệt. Vì thế mà mối hận thù giữa
hai dân tộc Pháp-Đức lại càng thêm nặng nề bi đát. Rốt cuộc, năm 1945 nước Đức
lại thua trận nữa, và cả Âu châu bị tàn phá kiệt quệ với hàng chục triệu nhân
mạng bị tiêu vong.
Như vậy là chỉ trong vòng 70 năm từ năm 1870 đến năm 1940, giữa hai dân tộc Pháp
và Đức đã xảy ra 3 cuộc chiến tranh đẫm máu với bao nhiêu triệu người bị giết và
tàn phế, bao nhiêu tài sản bị hủy họai, và nhất là sự căm thù giận ghét mỗi ngày
lại càng thêm chồng chất tích lũy giữa hai bên.
II – Quá trình Hòa giải và Hợp tác Pháp – Đức sau năm 1945.
Sau khi cuộc chiến tàn bạo dã man kết thúc, người dân hai nước bàng hòang trước
sự đổ nát hoang tàn và kiệt quệ về mọi mặt. Rồi tiếp liền theo là cuộc chiến
tranh lạnh gay go căng thẳng giữa hai phe cộng sản do Liên Xô lãnh đạo và phe tư
bản do Mỹ dẫn đầu. Nhằm lôi kéo khu vực Tây Âu về phía mình, kể từ năm 1948 nước
Mỹ đã hào phóng viện trợ đến trên 13 tỉ dollar cho các quốc gia đồng minh tại
đây thông qua một chương trình tái thiết Âu châu, mà thường được gọi là kế hoạch
Marshall.
Nhưng vai trò chủ yếu trong công cuộc phục hồi, tái thiết và hòa giải ở Tây Âu
là do các nhà lãnh đạo chính trị có tầm vóc đặc biệt lớn lao, điển hình như thủ
tướng Konrad Adenauer của Tây Đức, ngọai trưởng Robert Schuman của Pháp, và đặc
biệt là kế hoạch gia đại tài với viễn kiến sâu sắc Jean Monnet người Pháp. Đã có
quá nhiều sách báo viết về sự đóng góp đồ sộ làm nền móng vững chắc cho sự tiến
bộ của Âu châu từ trên 65 năm nay của những nhân vật chính trị kiệt xuất này,
cho nên tôi thấy không cần phải trình bày dài dòng chi tiết thêm nữa về họ.
Mà đúng theo với nhan đề của bài này, tôi muốn viết về một nhân vật tiêu biểu
của Xã hội Dân sự ở Âu châu, mà có sự đóng góp thật vĩ đại vào tiến trình hòa
giải của hai dân tộc Pháp và Đức trong mấy thập niên gần đây. Nhân vật lỗi lạc
đó chính là bà Irène Laure người Pháp, mà tôi xin dành được đề cập đến với nhiều
chi tiết hơn trong phần tiếp theo liền sau đây.
III – Câu chuyện của Irène Laure ( 1898 – 1987).
Irene Laure xuất thân là một cán sự điều dưỡng và đã từng giữ nhiệm vụ quản lý
bệnh viện. Victor người chồng của bà là một thủy thủ và là môn đệ của nhà lãnh
đạo cộng sản Pháp Marcel Cachin. Trong thế chiến thứ hai, Irène tranh đấu trong
hàng ngũ kháng chiến tại vùng hải cảng Marseille chống lại quân Đức quốc xã. Bà
có người con trai bị mật vụ Gestapo tra tấn tàn bạo, nên đã có sự căm thù tột
cùng đến độ mong cho mọi người dân Đức phải chết hết, và “ quốc gia này phải bị
xóa bỏ khỏi bản đồ của Âu châu”. Sau khi chiến tranh kết thúc, Irène được bầu
vào Quốc hội Lập hiến và làm Tổng thư ký của tổ chức “Phụ nữ Xã hội Pháp” với số
đòan viên lên tới 3 triệu người.
Tháng chín năm 1947, Irène đến tham dự một hội nghị quốc tế tại thành phố Caux
Thụy sĩ, cùng với nhiều đại biểu từ các nước Âu châu. Hội nghị này là do tổ chức
Moral Re-Armament MRA (Tái Võ trang Tinh thần) đảm trách, nhằm quy tụ nhiều nhân
vật văn hóa xã hội, tôn giáo để cùng nhau trao đổi về vấn đề tái thiết Âu châu.
Sẵn có sự căm thù đối với người Đức, Irène đã chuẩn bị rời bỏ Hội nghị khi được
biết là có một số người dân Đức cũng tham dự cuôc gặp mặt này. Nhưng bà đã ngưng
chuyện bỏ về, khi được một người trong Ban Tổ chức nói với Irène rằng : “ Bà là
một người theo khuynh hướng quốc tế xã hội, làm sao mà bà lại có thể tái thiết
được Âu châu, nếu bà loại trừ cả một dân tộc Đức?”
Dẫu vậy, khi được mời ăn bữa trưa với một phụ nữ Đức, thì Irène đã bị “xốc rất
nặng”, đến nỗi phải nằm lì trong phòng suốt hai ngày đêm liền, không ăn không
ngủ. Bà bị dằn vặt trăn trở với lửa hận thù còn ngùn ngụt nóng chảy trong tâm
can, và cầu xin ơn trên hướng dẫn soi sáng cho mình. Sau cuộc tranh đấu nội tâm
gay go căng thẳng này, Irène đã lấy lại được sự bình tĩnh và chấp nhận đến gặp
người phụ nữ Đức như đã được giới thiệu cách đó mấy bữa.
Trong bữa ăn này, Irene không hề động đến món nào, mà lại xổ ra tất cả những gì
đã chất chứa trong mình sau khi đã trải qua bao nhiêu sự tàn bạo của quân đội
Đức quốc xã. Rồi bà nói với người đối diện : “ Tôi phải nói ra tất cả chuyện này,
vì tôi muốn được giải thoát khỏi nỗi giận ghét này “ (I want to be free of this
hate).
Một sự im lặng kéo dài. Thế rôi người phụ nữ Đức mới lên tiếng, chia sẻ với
Irène về những gì bản thân mình đã trải qua trong thời chiến tranh. Bà này tên
là Clarita von Trott có chồng tên là Adam vốn là một người chủ chốt trong vụ âm
mưu ám sát Hitler vào ngày 20 tháng Bảy năm 1944. Âm mưu thất bại và Adam bị tử
hình, để cho một mình Clarita phải nuôi nấng hai đứa con. Clarita tâm sự với
Irène : “Người Đức chúng tôi đã không chống đối đủ, đã không chống lại chế độ
quốc xã sớm hơn và với quy mô đủ lớn, và chúng tôi đã đem lại cho chị và cho
chính mình và cho cả thế giới những đau khổ đầy đọa dằn vặt không sao kể cho
xiết được. Tôi muốn nói lời xin lỗi với chị “ (I want to say I am sorry).
Sau bữa ăn này, hai bà phụ nữ cùng các thông dịch viên đã yên lặng ngồi trên gác
thượng nhìn xuống hồ Geneva. Rồi Irène lên tiếng nói vời người bạn mới người Đức
rằng bà tin tưởng là nếu cả hai người cùng cầu nguyện, thì Thiên chúa sẽ giúp họ.
Irène cầu kinh trước, xin cho mình được giải thoát khỏi lòng hận thù để có thể
còn xây dựng được tương lai. Và rồi đến lượt Clarita cầu nguyện bằng tiếng Pháp.
Irène bất giác đặt tay trên đầu gối của kẻ thù địch trước đây của mình. Sau này,
Irène tâm sự : “Từ lúc đó, cây cầu bác ngang qua sông Rhin đã được xây dựng, và
cây cầu đó đã đứng vững mãi, không bao giờ gẫy đổ được.” (And that bridge always
held, never broke)- (Ghi chú : Sông Rhin là biên giới giữa hai nước Pháp và Đức).
Cuối cùng Irène đã phát biểu trong một phiên họp khoáng đại của Hội nghị trước
sự hiện diện của 600 tham dự viên. Bà nói : “ Tôi đã ghét nước Đức đến độ muốn
thấy nước này bị xóa bỏ khỏi bản đồ châu Âu. Nhưng tại đây, tôi thấy sự hận thù
của mình là điều sai lầm. Tôi xin lỗi và tôi mong được xin tất cả các bạn người
Đức có mặt nơi đây tha thứ cho tôi…” Liền sau đó, một phụ nữ Đức bước lên và nắm
tay bà Irène. Sau này Irène thuật lại : “ Lúc đó, tôi biết rằng tôi sẽ dành hết
cuộc đời còn lại của mình để đem cái thông điệp của sự tha thứ và hòa giải này
đến khắp thế giới.”
Và quả thật vào năm sau 1948, Irène cùng chồng là Victor đã qua bên nước Đức
suốt 3 tháng , đi khắp nơi để tham dự 200 phiên họp và phát biểu tại Quốc hội
của 10 tỉnh bang của xứ này. Ở đâu, bà cũng nói lời xin lỗi của mình. Và đổi lại,
thì cũng có rất nhiều vị tướng lãnh và sĩ quan, cùng các chính khách người Đức
cũng đều lên tiếng xin lỗi với bà.
Và đó là bước khởi đầu cho cả một quá trình lâu dài của sự hòa giải và hàn gắn
giữa hai dân tộc Pháp và Đức, ngay từ hạ tầng cơ sở của quảng đại quần chúng
nhân dân tại hai nước. Có thể nói là cái “phong trào quần chúng tự phát này” đã
có tác động mãnh liệt thúc đảy cho tầng lớp lãnh đạo chính trị tại hai quốc gia
này thực hiện mau chóng sự Hòa giải và Hợp tác Hội nhập giữa hai dân tộc và góp
phần chủ yếu vào công cuộc xây dựng thành công cho Liên Hiệp Âu châu như ta thấy
ngày nay ở thế kỷ XXI vậy./
California, Tháng Hai 2011
Đoàn Thanh Liêm