Câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ lúc mới
sinh trong Phúc Âm của thánh Gioan (Gioan 9 1- 41), được Giáo Hội mời gọi chúng
ta suy niệm khi bước vào Chúa Nhật thứ tư mùa chay năm A. Trong bài Phúc Âm của Thánh Gioan, Giáo Hội
muốn cho chúng ta thấy rằng qua việc chữa lành anh mù, Chúa Giêsu đưa nhiều điều
ra ánh sánh chứ không phải chỉ có một việc là chữa lành đôi mắt thể lý của anh
mù. Qua những tình tiết của việc chữa
lành, cộng với những thái độ phản ứng của các nhân vật trong bài Phúc Âm, cho
chúng ta thấy được là có hai loại mù lòa: đó là mù đôi mắt thể lý và mù đôi mắt
tâm linh. Trong hai loại mù này thì cái
mù tâm linh nguy hiểm và nghiêm trọng hơn vì nó có ảnh hưởng đến sự sống đời
sau của mỗi người chúng ta là các tín hữu Công Giáo.
Trong bài Phúc Âm của tuần lễ thứ ba mùa chay (Gioan
4:5-42) nói về “Người đàn bà Samaria bên bờ giếng Gia-cóp”, và câu chuyện anh mù trong bài Phúc Âm của
Chúa Nhật tuần 4 Mùa Chay hôm nay ((Gioan 9 1- 41) đều có bốn điểm nổi bật.
· Thứ nhất là người được Chúa Giêsu chữa
lành.
· Thứ Hai là niềm tin của người được chữa
lành.
· Thứ ba là hành động làm nhân chứng cho Chúa
Kitô của họ
· Thứ tư là sự phản ứng của những người chung
quanh về việc chữa lành này.
Trong bốn điểm vừa nói thì có ba điều giống nhau và một
điểm khác nhau giữa hai câu chuyện Phúc Âm. Các điểm giống nhau là:
· Thứ nhất
- cả hai đều gặp gỡ Chúa Giêsu và được Ngài chữa lành. Người đàn bà được chữa lành về quá khứ tội lỗi
của bà ta. Anh mù được chữa lành đôi mắt
thể lý.
· Thứ
hai - cả hai người đàn bà và anh mù đều tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế.
· Thứ ba - cả hai đều có nhiệt tâm làm nhân chứng
và quả quết rằng ông Giêsu là người đến từ Thiên Chúa.
Điểm khác nhau giữa hai câu chuyện này là sự phản ứng của
những người chung quanh về những sự việc đã xẩy ra. Trong câu chuyện của người đàn bà bên bờ giếng
Gia-cóp, những người nghe bá ta
kể lại sự việc đã bị cảm hóa và tin vào sự làm chứng của bà ta. Trong khi đó những người trong câu chuyện của
anh mù đã đóng cửa lòng và nghi ngờ vể những gì mà Chúa Giêsu đã làm để chữa lành
đôi mắt cho anh mù. Họ tiếp tục hỏi đi hỏi
lại anh ta, rổi đi đến quyết định rằng “ông Giêsu là một người tội lỗi vì đã không giữ
luật ngày Sa-bát.” Trong khi đó anh mù không nghĩ như thế. An ta vẫn một mực nhất quyết tin là ông Giêsu
đến từ Thiên Chúa. Cuối cùng thì họ tức
giận trục xuất anh ra khỏi cộng đoàn. Những
tình tiết của các nhân vật trong bài Phúc Âm cho chúng ta nhận ra một vài điểm
mà mỗi người có thể gặp phải và rơi vào trong cuộc sống của mỗi người. Sâu
chuyện của anh mù giúp chúng ta hiểu rằng đi theo Thầy Giêsu không phải lúc nào
cũng thuận buồm, xuôi gió cả đâu !!! . Nhưng trái lại sẽ có thể bi loại trừ, gặp nhiều
chống đối và gian truân. Đôi khi mỗi người
chúng ta cũng có thể đóng vài trò là những người “chung quanh” của câu chuyện, trong những tình huống sự việc
xẩy ra ngay trong gia đình, khu xóm và cộng đoàn giáo xứ nơi chúng ta sinh sống.
Nếu không có sự chữa lành của Đức Kitô thì cả hai người
đàn bà Samaria và anh mù sẽ chắng bao giờ có cơ hội đổi đời. Người đàn bà sẽ mãi mãi bị vương mắc
trong cuộc sống với những liên hệ không
chính đáng và tội lỗi. Anh mù trong bà
Phúc Âm sẽ luôn bị tù túng trong sự mù lòa tối tăm, sự ruồng bỏ của gia đình và
sự kinh bỉ coi thường của mọi người chung quanh. Chúa Giêsu đã đến và giải thoát họ ra khỏi những
tình huống này
và cho họ một đời sống mới. Thật rất đúng với câu
hát: “Gặp gỡi Đức Kitô biến đổi cuộc đời
mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái
sinh” Chúng ta có muốn được chữa
lành và có một đời sống mới như người đàn bà Samaria và anh mù trong Phúc Âm
không?
Qua hai câu chuyện này Chúa Giêsu muốn làm ấm lại đức tin
của mỗi người chúng ta. Cho dù chúng ta
không trực tiếp “tay nắm tay, mắt nhìn mắt” tiếp xúc với Ngài, chúng ta vẫn có thể cảm
nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu qua hai câu chuyện của Phúc Âm. Chúa Giêsu đã chờ đợi người đàn bà trước khi
bà ta đến bời giếng lấy nước. Ngài cũng
bắt đầu việc chữ lành cho anh mù trước khi anh ta mở miệng van xin. Như thế
chứng tỏ rằng Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm mỗi người chúng ta. Trong những sinh hoạt hàng ngày, Thiên Chúa
luôn âm thầm đồng hành với chúng ta và Ngài hằng ao ước chúng ta để ý đến sự hiện
diện của Ngài, chạy đến Ngài, để Ngài cứu giúp và ban ân sủng cho chúng
ta. Một điều quan trọng hơn nữa là Ngài
muốn cho chúng ta biết là Chúa Thánh Thần
luôn giúp và nhắc nhở chúng ta là con cái của Thiên Chúa như thư của Thánh
Phaolô gởi cộng đoàn La-mã
chương 8 câu 16 đã nói: “chính Thần Khí
chứng thực cho chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.” Nhưng tiếc
thay sự mù lòa đã cản trở chúng ta
trong việc ý thức nhận ra điều này.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì đa số chúng ta là những người
có diễm phúc được Chúa ban cho đôi mắt sáng và lành lặn. Tuy nhiên, đôi mắt tâm linh đôi mắt đức Tin của
chúng ta có thể bị mù lòa như Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm: "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế
gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ
trở nên mù." Đúng vậy, có những
người có đôi mắt thể lý rất sáng nhưng đôi mắt tâm linh thì lại có vấn đề là mù lòa.
Có ba loại mù lòa về tâm linh như
sau: mù lòa về bản thân, mù lòa về tha nhân và mù lòa về Thiên Chúa.
Mù
lòa về bản thân là khi chúng ta không biết rõ hoặc “cố tình”
không muốn biết về những khuyết điểm, những
giới hạn của mình, cũng như những tài năng mà Chúa đã ban cho chúng ta. Mù lòa
vì không nhận ra những lỗi lầm những sai trái của bản thân mình. Mù lòa
về bản thân là sống ích kỷ không mang những tài năng, những đồng tiền Thiên Chúa
đã ban để làm lợi “cho nước Trởi”. Mù
lòa về bản thân là chúng ta thường sáng chuyện của người khác trong khi chuyện
của chính mình thì lại mù mờ.
Mù lòa
về tha nhân – Tính”gia trưởng”, tự cao, tự đại và tự ái
sẽ dẫn chúng ta đến căn bệnh mù lòa về tha nhân. Khi bị căn bịnh này chúng ta không muốn thấy
những tài năng, những điểm tốt, điểm tích cực của anh chị em để ngợi khen, khuyến
kích và học hỏi. Nhưng trái lại, chúng
ta chỉ thấy những điểm tiêu cực, những khuyết điểm để chê bai, để coi thường người
anh chị em của chúng ta. Mù lòa về tha
nhân sẽ từ từ dẫn
đến cái hội chứng vô cảm, vô tâm và vô tình. Hội chứng “tam vô” này làm cho chúng ta mù lòa về lòng
nhân, và đóng chặt con tim của minh lại không “chặn lòng thương” như Chúa Giêsu đã từng có những giây phút “chạnh lòng thương và ngậm ngùi” như
trong Phúc Âm đã nói khi Ngài thấy những người
anh chị em của Ngài đang gặp đau khổ và hoạn nạn. Mù lòa về tha nhân thường làm cho chúng ta giả
bộ làm như không biết, không nghe và không thấy vì sợ bị làm phiền, sợ mất thời
giờ và nhất là sợ không dám dấn thân để làm
“tay và chân” cho Thiên Chúa. Do đó dễ làm cho chúng ta chỉ theo
Chúa “nữa vời” mà thôi.
Mù
lòa về Thiên Chúa – Mù lòa về Thiên Chúa là khi chúng ta không
nhận ra sự hiện diện của Ngài trong vũ trụ và thiên nhiên. Không nhận ra được Thiên Chúa đang hiện diện
trong những sinh hoạt, hoàn cảnh sống trong gia đình giữ vợ chồng, con cái và
anh chị em. Chúng ta không thấy Thiên Chúa
hiện diện qua người khác và chúng ta không sống đúng “luật yêu thương” để người khác có thể thấy Chúa qua chúng ta. Mù lòa về Thiên Chúa sẽ cản trở không cho
chúng ta thấy Chúa trong tha nhân, trong gia đình, giáo xứ và trong các bí tích
nhất là bí tích Thánh Thể. Lấy một thí dụ
dễ thấy trong việc này là có một số người Công Giáo không ý thức được là: mỗi lần
tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta được mời tham dự bàn tiệc Thánh.
Mỗi khi đi tham dự những buổi tiệc tùng ngoài đời, hầu như mọi người
trong chúng ta thường mặc những áo quần đẹp chỉnh tề, thế mà mỗi làn đi dự bàn
tiệc Thánh của Thiên Chúa, thì một vài tín hữu lại mặc những quẩn áo lôi thôi, tầm
thường không đẹp bằng khi đi tham dự những bữa tiệc ngoài đời. Trong khi tham dự
Thánh Lễ thì lại lo ra, mong sao cho Thánh Lễ mau xong, vì trong đầu của họ cứ nghĩ đến
những việc cần phải làm sau Thánh Lễ. Nếu
chúng ta thường hay có những triệu chứng này khi tham dự Thánh Lễ, thì có thể đây
là dấu chỉ chúng ta đang mắc phải căn bịnh mù lòa về Thiên Chúa. Khi mang trong
ngưởi can bệnh mù lòa về Thiên Chúa sẽ làm chúng ta không cảm nhận được là Thiên Chúa đã và đang đồng hành với mỗi người chúng ta
trong cuộc sống sinh nhai mỗi ngày từ lúc sáng mở mắt ra cho đến tối lúc nhắm mắt
lại đi ngủ.
Như vậy thì làm cách nào để chúng ta có thể chữa trị bệnh
mù lòa về tâm linh này? Trước hết chúng
ta hãy xin Chúa ban cho mình ơn ý thức.
Ý thức ‘HƠN’ với những ân sủng của Thiên Chúa qua những đã gì xẩy đến
cho chÍnh mình trong ngày. Sau đó xin
Chúa ban ơn mở lòng để chúng ta có thể đóng nhận và ôm ấp những điều ý thức này
với một tâm tình tạ ơn, cho dù những điều đã và đang xẩy ra đó làm chúng ta
không thích đi chăng nữa; vì tất cả đều là những hồng ân, những món quà đến từ
Thiên Chúa. Sau đó, xin Chúa ban cho chúng
ta ơn liên lĩ và kiên nhẫn mang những tâm tình này vào giờ cầu nguyện. Trong giờ cầu nguyện nên trò chuyển, tỉ tê với
Chúa, hỏi Ngài xem những gì làm cho
chúng ta có sự bình an hay mất bình an đã xẩy ra trong một
ngày.
Những việc này mang một ý nghĩa gì đối với chúng ta. Lắng
nghe và làm theo những gì Ngài đánh động trái tim của chúng ta. Nếu chúng ta làm những việc này liên lĩ mỗi
ngày, chỉ trong vòng một vài tháng, tôi tin chắc là căn bịnh mù lòa về tâm linh
của chúng ta sẽ từ từ không còn nữa. Và
từ từ trái tim của chúng ta sẽ trở nên mềm mại và căn bệnh “Tam Vô – vô tâm , vô cảm, vô tình” sẽ trở
hành “Tam Hữu – hữu
tâm, hữu cảm và hữu tình.”
Lạy Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm. Chúa đã nói với các tông đồ: “Bao lâu Thấy còn
ở thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” (Ga 9:5). Trong mùa Chay năm nay,
Xin Chúa hãy chữa lành đôi mắt tâm linh của chúng con như Ngài đã làm cho anh
mù, để chúng con nhận ra và thấy được những bất toàn, những giới hạn nơi bản
thân của mỗi người chúng con. Xin Chúa hãy
chữa lành đôi mắt tâm linh của mỗi người chúng con, để chúng con chỉ thấy được
những điều hay, những điều tốt nơi người anh chị em của chúng con. Và sau cùng xin Chúa mở rộng và lau sạch đôi
mắt tâm linh của mỗi người chúng con để chúng con cảm nhận được rõ ràng tình
yêu của Ngài, nhất là chúng con ý thức rằng con Ngài, Đức Giêsu luôn luôn hiện
diện và đồng hành với từng người chúng con trong cuộc sống vui buồn hàng ngày. AMEM.
Phó-tế Giuse Nguyễn Xuân Văn