Đức Mẹ Mân Côi
1 St 12, 1-7; Lc 1, 26-38
Ta dừng lại một chút để nhìn lại lịch sử, ý nghĩa của Kinh Mân Côi
Ngày 7-10-1571, sau kỷ niệm ghi dấu cuộc chiến thắng quân Hồi giáo Thổ Nhĩ
Kỳ tại vịnh Lépante nhờ ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Chính vì
vậy, Đức Thánh Piô V dạy cộng đoàn dân Chúa rước kiệu Mẹ trọng thể. Không chỉ
thế, Đức Thánh Piô V thành lập lễ Mẹ Thắng Trận vào ngày mồng 7 tháng 10 để ghi
ơn Đức Mẹ.
Và rồi đến đời Đức Grêgôriô XIII, theo lời dòng Đaminh đệ trình xin đổi lại
ngày lễ. Ngài ra sắc lệnh ngày 1-4-1573 đổi là lễ Mẹ Mân Côi được mừng vào Chúa
nhật 1 tháng 10 tại các nhà thờ tôn kính Mẹ Mân Côi.
Năm 1671, lễ này cũng được Đức Clementê X ban phép mừng khắp Giáo hội
Tây ban nha. Năm 1716, sau những chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Temeswar và
Corfu ở ven biển Hylạp, các giáo hữu gọi Mẹ là Mẹ chiến thắng và Đức Clêmentê XI
truyền cho khắp Giáo hội đặc biệt mừng lễ Mẹ Mân Côi hàng năm. Ngày 11-9-1887,
Đức Lêô XIII nâng lễ Mẹ Mân Côi lên bậc nhì với kinh lễ và kinh Phụng vụ theo
phụng vụ dòng Đaminh.
Sau cùng, Đức Thánh Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng
10.
Kinh Mân Côi nguyên tiếng Latinh là Rosarium, tiếng Anh, tiếng Pháp là Rose
là hoa hồng tượng trương kinh Kính Mừng kết thành vòng hoa thiêng dâng kính Đức
Mẹ như cổ thời Hylạp, và một số nước hiện nay, người ta làm vòng hoa tươi treo
vào cổ trao tặng nhau. Trước kia người ta đếm kinh bằng hạt sỏi, dần dần người
ta kết những hạt khác thành chuỗi Mân côi gọi là Rosary.
Thế kỷ XII, 150 Thánh vịnh David dài quá đối với nhiều người không thể
đọc được, nên người ta đọc 150 kinh Lạy Cha thay thế. Dần dần người ta đọc 150
kinh Kính Mừng thay 150 kinh Lạy Cha. Do đó thánh Đaminh gọi là "Thánh vịnh Đức
Mẹ." Sau này Đức Sixtô IV gọi tắt là "Thánh vịnh." Bắt đầu kinh Kính Mừng chỉ
gồm có lời chào của thiên sứ Gabriel: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở
cùng Bà" (Lc 1, 28), rồi được thêm lời chào của bà Thánh Elizabeth: "Bà có phúc
lạ hơn mọi người nữ. Và Con lòng Bà gồm phúc lạ" (Lc 1, 42).
Cũng trong thế kỷ XII, Đức Mẹ hiện ra trao truyền tràng hạt Mân côi
cho Thánh Đaminh để cải hoá bè rối Albigensê đang tung hoành ở phía nam nước
Pháp. Sang thế kỷ XIII, đời Đức Urbanô IV, Thánh Danh "Giêsu" được thêm vào.
Lúc đó, người ta đọc 150 kinh Kính Mừng cùng với 150 kinh Lạy Cha, nghĩa là
mỗi kinh Kính Mừng một kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ XIV, thầy Henry Kalkar
(1328-1408), dòng Carthusian do thánh Brunô sáng lập, chia 150 kinh Kính
Mừng thành từng chục (10) mỗi chục một kinh Lạy Cha.
Mãi đến thế kỷ XV, Cha Đaminh Prussia (1384-1460) cũng dòng Carthusian chia
150 Kinh Kính Mừng thành 3 chỗi 50.
Cũng trong thế kỷ này, Chân phúc Alanô de la Roche hay là De Rupe thêm phần
suy niệm các mầu nhiệm trong khi lần chuỗi. Từ nay tràng kinh Mân Côi gọi là
"Vòng hoa hồng". Chân phúc Alanô nhiệt thành phổ biến kinh Mân Côi mà Đức Mẹ đã
trao truyền cho Thánh Đaminh. Chân phúc Alanô thành lập Hội Mân Côi năm 1480 và
được Đức Mẹ hứa ban 15 ơn cho những ai trung thành đọc kinh Mân Côi.
Năm 1521, Cha Albertô da Castello, O.P., sửa lại mỗi kinh Lạy Cha với một
mầu nhiệm. Năm 1569, Đức Thánh Piô V với bửu sắc "Consueverent Romani
Pontifices" thêm phần thứ hai kinh Kính Mừng: "Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời..."
với kinh Sáng Danh, và ấn định kinh Mân Côi như chúng ta đọc ngày nay.
Dừng một chút để nhìn lại ý nghĩa, gốc tích của việc sùng kính Đức Mẹ, đặc
biệt qua tràng chuỗi Mân Côi.
Với tràng chuỗi Mân Côi, ta bắt gặp lời của sứ thần gửi đến Đức Mẹ trong
ngày sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ như trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Và,
hành động của Mẹ Maria như chúng ta thấy đó là tin. Mẹ diễn tả niềm tin đó hết
sức giản đơn : xin vâng !
Quả thật lời xin vâng của Mẹ quá tuyệt vời. Lời xin vâng của Mẹ như là đỉnh
điểm cuộc đời, đỉnh điểm niềm tin vào Thiên Chúa.
Và, ta cũng được thấy niềm tin đó nơi cuộc đời của Abraham qua bài đọc sách
Sáng Thế. Sách Sáng Thế kể như thế này : Khi ấy, Chúa phán cùng Abram rằng:
"Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ
cho. Hôm nay ngươi đã chọn Chúa làm Thiên Chúa, thì hãy bước đi trong đường lối
Người, tuân giữ các lề luật, giới răn và huấn lệnh của Người; hãy vâng lệnh
Người. Hôm nay Chúa đã chọn ngươi làm dân riêng Chúa, như Người đã phán với
ngươi, thì ngươi hãy tuân giữ mọi giới răn của Người. Người sẽ làm cho ngươi
được vinh quang, thanh danh và huy hoàng hơn mọi dân tộc Người đã tạo dựng, để
ngươi trở thành dân thánh của Chúa là Thiên Chúa ngươi, như Người đã phán".
Nghe lời của Thiên Chúa, Abram đã ra đi như những gì Chúa đã truyền dạy.
Trong chuyến đi đó, có cả ông Lót đi theo.
Khi bỏ đất Haran, Abram được bảy mươi lăm tuổi. Ông đem Sarai vợ ông và Lót
là cháu cùng với tất cả tài sản và gia nhân mà họ có ở Haran. Họ ra đi đến đất
Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ, cho đến Sikem, thung lũng thời
danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này.
Chúa đã hiện ra với Abram và phán rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi
ngươi". Ông đã dựng ở đó một bàn thờ kính Thiên Chúa, Đấng đã hiện ra với ông.
Quá tuyệt vời, chính vì tin nên Abaraham được Chúa công bố rằng ông là cha
của những kẻ tin.
Tin là như vậy, tin là như thế đó, tin là để cuộc đời mình hoàn toàn trống
rỗng để cho Thiên Chúa lấp đầy.
Nói thì dễ nhưng khi đáp trả niềm tin vào Chúa không phải là chuyện dễ dàng.
Nhìn vào thực tại của cuộc sống ta cảm thấy niềm tin đó vẫn cứ mãi được thử
thách, không chỉ mỗi ngày mà mỗi giây mỗi phút trong cuộc đời.
Nhìn vào ngay như trong Giáo Hội, nhất là thời gian gần đây, ta lại thấy,
lại chứng kiến, lại đau lòng để tiễn đưa những linh mục tuổi còn quá trẻ đi về
lòng đất mẹ. Những con người ấy, những linh mục ấy đang phơi phới trong mình sức
sống của tuổi trẻ, của năng lực thế nhưng rồi Chúa đã dừng lại cuộc đời của
những vị đó lại. Qua những biến cố đó, niềm tin của chúng ta lại được mời gọi,
được thử thách. Ta lại được mời gọi nếu đó là ta, ta sẽ phản ứng gì, ta phản ứng
như thế nào ?
Dĩ nhiên ta cũng sẽ cảm thấy sốc, cảm thấy khó chịu và có khi là cứng tin và
mất lòng tin nữa. Nhưng, trong sâu thẳm những biến cố của cuộc đời, ta lại được
mời gọi sống, diễn tả niềm tin như cụ già Abraham, Mẹ Maria.
Lời Kinh Mân Côi mà ta được mời gọi siêng năng đọc, ít là những lần hiện ra
mà Mẹ nhắc nhở củng chính là lời mời gọi của Mẹ xin thưa với Mẹ hai tiếng xin
vâng với Chúa cuộc đời của ta.
Kinh nghiệm về Kinh Mân Côi, ta bắt gặp nơi cảm nghiệm cũng như các Thánh :
Thánh Gioan Kim Khẩu: Thiên Chúa cai trị thế gian, nhưng kinh nguyện điều
khiển Thiên Chúa.
Thánh Augustinô: Bất cứ lúc nào chúng ta sốt sắng đọc kinh Lạy Cha, tội mọn
của chúng ta sẽ được thứ tha.
Thánh Bênađô: Kinh Kính Mừng làm cho quỷ dữ trốn chạy, hỏa ngục run sợ.
Thánh Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp
lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân Côi.
Thánh Bônaventura: Ai lơ là với Mẹ sẽ chết trong tội lỗi. Mẹ Maria chào chúc
chúng ta với ơn lành, nếu chúng ta kính chào Mẹ bằng kinh Kính Mừng.
Đức Mẹ phán với thánh Mechtildê: Mẹ muốn con biết rằng không ai có thể làm
đẹp lòng Mẹ bằng đọc lời thiên sứ chào Mẹ mà Chúa Ba Ngôi chí thánh gửi xuống
cho Mẹ và nâng Mẹ lên chức phẩm Mẹ Thiên Chúa.
Thánh Giêtrudê xem thấy Chúa Giêsu đếm tiền vàng. Chúa nói: Cha đếm kinh
Kính Mừng mà con đọc. Đó là tiền mà con có thể mua đường lên thiên đàng.
Thánh Tôma Kempi: Bạn hãy ân cần kính chào Mẹ bằng lời thiên sứ đã chào Mẹ,
Mẹ rất hoan hỉ khi nghe lời chào ấy.
Chân phúc Alanô: Kinh Kính Mừng là một cầu vồng trên trời, là một dấu chỉ
lòng thương xót và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có
lòng sùng kính kinh Mân Côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ trong cuộc
sống và trong giờ họ chết.
Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua đội triều
thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.
Thánh Bôrômêô: Kinh Mân Côi là kinh linh thánh nhất sau thánh lễ hy tế. Các
bạn hãy đọc kinh Mân Côi siêng năng bao nhiêu có thể.
Thánh Montfort: Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người
kiêu căng chê ghét hay khinh thị kinh Kính Mừng và kinh Mân Côi, là những người
có dấu bị trầm luân hỏa ngục. Không có gì có hiệu lực được lên nước Thiên Chúa
bằng đọc kinh Mân Côi và suy ngắm 15 mầu nhiệm.
Thánh Phanxicô Salêsiô: Đọc kinh Mân Côi là việc thích thú nhất và là niềm
vui thứ nhất của lòng tôi.
Thánh Anphongsô : Nhờ kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao
linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân Côi đã
được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
Thánh Vianney: Tôi biết điều có mãnh lực hơn Thiên Chúa là người cầu nguyện
làm cho Thiên Chúa nói "được", khi Người đã nói "không được".
Và rồi, với tâm tình của các Thánh, niềm tin của chúng ta được mời gọi và
lời đáp trả do mỗi người chúng ta.