CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN B
G 7,11-.6-7. 1 Cr 9,16-19,22-23. Mc 1,29-39.
Tâm trạng, cảm xúc của con người thật khó nói. Có những lúc lòng người cảm
thấy hứng thú khi làm việc nhưng rồi có những lúc lòng cảm thấy buồn rười rượi
bởi lẽ có khi thầy cuộc đời này chẳng là gì cả.
Jean-Paul Sartre - một triết gia, phê bình gia, tiểu thuyết gia và một kịch
tác gia nắm một vị trí cao cả, ít ai có trong thế giới văn chương Pháp. Những
tác phẩm của Sartre, đặc biệt La Nausée (Xb đầu tiên 1938) đã thu hút một số
lượng khổng lồ về triết thuyết hiện sinh của Sartre như một tư tưởng mới và có
một ý nghĩa quan trọng. La Nausée/Buồn Nôn là một tiểu thuyết mang tính hiện
thực vừa đương đại vừa hiện thực cho một chủ nghĩa hiện sinh mà Sartre chủ xướng
một cách trung thực và đầy sáng tạo giữa đời này.
Buồn Nôn là một câu chuyện hư cấu nhưng có thực và sống thực qua nhân vật
Antoine Roquentin. Tác giả đã làm kinh ngạc người đọc về triết thuyết hiện sinh.
Một tiểu thuyết đầy ấn tượng dưới một thể thức nhật ký mà ông đã diễn tả được
cái sâu sắc nội tâm của con người, cái ray rứt, cái tàn nhẫn trong sự cảm nhận
giữa thế giới với con người dường như xảy ra quanh đời ông. Tư tưởng của Sartre
đạt tới cực điểm và lan tỏa, vượt qua được sức mạnh của cảm giác, tức nỗi đau
khổ không cùng của con người đứng trước hiện hữu; tất cả được thể hiện rộng rãi
từ dưới thể tính bầy nhầy, nhão quẹt (vicous) trộn lẫn với loãng chất (puddle)
của cái thời đầy rẫy bóng tối vây quanh và lan trải như vết dầu loang; những
hiện tượng đó là cơ hội dành cho Sartre phát triển chủ nghĩa hiện sinh, mà nhân
tố hiện sinh chính là nhân bản, là yếu tố tâm lý và sinh lý giữa hiện thể và
hiện vật xẩy ra cùng một lúc.
Buồn Nôn không còn là hư cấu, nó trở nên một luận cứ triết học của học
thuyết hiện sinh mà Jean-Paul Sartre là kẻ đưa đường. Tác phẩm Buồn Nôn của
ông đã để lại hậu thế những giá trị tuyệt đối, vượt thời gian qua những án văn
chương bất hủ, một phạm trù triết học đầy nhân tính trong thuyết hiện sinh của
ông. Jean-Paul Sartre là nhân vật thời thượng qua mọi thời đại của nền văn học
sử hiện đại.
Tâm tình nhìn thấy cuộc đời này đầy chán nản ta cũng bắt gặp trong cuộc đời
của một người rất thân quen trong Thánh Kinh đó là ông Giob. Ta vừa nghe ông
Giob ai oán : "Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ
giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như
người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn
rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi
lại nói: "Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn
sầu mãi cho đến tối". Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi
mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở!
Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".
Sau khi nghe Giob ai oán như thế, ta cũng giật mình tỉnh giấc vì lẽ đôi khi
cuộc đời ta cũng rơi vào cảm giác như thế. Bằng chứng rõ nét là ta vẫn thấy
quanh ta có những cuộc tự vẫn, có những người tìm đến cái chết bởi vì họ cảm
thấy cuộc đời này chán nản. Trong những người tìm đến cái chết đó cả những người
có chức có quyền, các minh tinh màn bạc, ca sĩ ... Cũng dễ hiểu vì lẽ những
người đó đã không tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Vậy, cuộc sống của ta, cuộc đời của mỗi người chúng ta vui khi nào ? Khi
chúng ta ra công làm việc và tất cả những việc lớn bé to nhỏ trong đời ta ta đều
kết hiệp với Chúa và dâng hết cho Chúa.
Trang Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay gợi cho ta một hình ảnh của một con
người lao động. Con người ấy là ai ? Thưa là chính Chúa Giêsu.
Thánh Máccô cho chúng ta biết một ngày làm việc tiêu biểu của Chúa Giêsu ở
thành phố Capharnaum, thành phố của Phêrô và Anrê. Ngài giảng dạy ở hội đường,
chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon cho khỏi cơn ssốt, chữa nhiều bệnh nhân và trừ
qủi từ chiều cho đến tối. Sáng sớm tinh sương đi cầu nguyện nơi thanh vắng, và
tiếp tục đi rao giảng ở những nơi khác.
Tóm lại, ta thấy Chúa Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày và trừ
qủi.
Những công việc bận rộn như vậy cũng không hề làm cho Ngài mất tiếp xúc với Cha
của Ngài ở trên trời. Ngài sẽ dùng nhiều thời giờ nghỉ ban đêm để sống thân mật
với Cha Ngài ở trên trời. Ngài còn dành nhiều thời giờ ban đêm để sống mật thiết
với Chúa Cha nữa như ở những nơi khác ta thấy Ngài thức suốt đêm để cầu nguyện.
Rõ ràng rằng đời sống làm việc của Chúa Giêsu được kết nối hay nói cách khác
là đan xen trong lời cầu nguyện của Ngài. Lao động và cầu nguyện để ngày mỗi
ngày càng gần Chúa hơn qua những công việc của Chúa Cha trao phó. Cha trao phó
cho Chúa Giêsu công việc chính yếu nhất đó là loan báo Tin Mừng Nước Trời, loan
báo niềm vui Tin Mừng.
Nếu như những người bình thường khác, Chúa Giêsu sẽ cảm thấy chán ngán vì ra
sức làm việc mà chẳng được gì cả, thậm chí còn bị giới luật sĩ và biệt phái soi
mói đủ thứ đủ điều. Thế nhưng, vì Tin Mừng, vì Cha và với Cha, Chúa Giêsu không
bận tâm những lời ra tiếng vào nữa và vì làm việc nhiều quá mệt để rồi khi đặt
lưng xuống là ngủ chứ không còn thời giờ để suy nghĩ vu vơ.
Ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện tại, ta vẫn thấy có nhiều người vẫn còn
đó những chán ngán của cuộc đời do họ suy nghĩ cuộc đời này vô nghĩa, cuộc đời
này không đáng sống. Thật ra, cuộc đời này đáng sống lắm đấy bởi lẽ ai ai sinh
ra cũng chỉ một lần và chết cũng có một lần mà thôi. Và vì thế, hãy ra công làm
việc
Đâu đó ta vẫn nghe Chúa Giêsu nói : "Các ngươi hãy ra công làm việc không
phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là
của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi
dấu" (Ga 6, 27)
Trong hành trình làm người ở trần gian, cần lắm của ăn nuôi sống cái xác
thịt 5,6, 7 chục ký này nhưng cần hơn nữa đó chính là của ăn tồn tại cho đến
cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho mỗi người một khả năng, một ơn gọi, một biệt tài nhưng có khi
con người không nhận ra để rồi khi không nhận ra thì cuộc sống cảm thấy chán
càng chán thêm.
Có một người đến tuổi trung niên. Bỗng nhiên anh bị tai biến và khả năng đi
lại thật khó khăn. Lẽ ra trong cái buồn, trong cái hạn chế của bệnh tật và nhất
cả của kiếp người, anh cũng có quyền ai oán nhưng bao người khác nhưng ngược lại,
anh cảm thấy anh còn làm được gì thì anh cố làm. Thế là anh chuyên chăm vào
chuyện suy gẫm là lắng nghe lời Chúa. Chỉ là một giáo dân bình thường như bao
nhiêu người khác nhưng anh đã cố gắng loan báo Tin Mừng bằng suy nghĩ, bằng sẻ
chia Lời Chúa hàng ngày của anh. Thật trân trọng tâm hồn và cách lao động làm
việc của anh. Cách nào đó anh loan báo Tin Mừng thật tuyệt vời.
Một cô kia cũng đang ở cái tuổi gần 60. Gia đình tương đối đủ ăn đủ mặc và
hàng xóm vài người trêu rằng sao không nghỉ ngơi đi mà cứ lo buôn bán. Vui miệng,
cô trả lời : "Đủ ăn, đủ mặc rồi nhưng làm thêm để kiếm tiền rải đường đi lên
thiên đàng !". Cô đùa vui thôi. Trong tâm tình, cô chia sẻ với tôi rằng : "Tôi
còn sức còn làm và dư ra để tôi lại chia sẻ với người nghèo hơn tôi". Mà thật !
Tôi vẫn thấy cô xuất hiện trong những chuyến từ thiện, những chuyến thăm viếng
người nghèo, người tâm thần.
Phải chăng cô không làm việc để tích lũy làm giàu như người khác nhìn vào
nhưng cô lao công để chia sẻ cho người khác. Đây là cách sống loan báo Tin Mừng
bằng chính sự chia sẻ của cô, của gia đình cô.
Trong thư chúng ta vừa nghe Thánh Phaolô tự nhận là mình có nhiệm vụ phải
rao giảng Tin mừng :”Khốn
cho tôi, nếu tôi
không rao giảng Tin mừng”.
Ngài cố gắng thi hành nhiệm vụ này một cách vô vị lợi, không tìm vinh danh cho
mình nhưng chỉ dành cho Chúa. Chính vì thế, Ngài đã cố gắng trở nên mọi sự cho
mọi người, chia sẻ những sự yếu đuối của anh em, sống cuộc sống của họ, tự đặt
mình làm tôi tớ phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn, và mục đích
của Ngài là tranh thủ đem về cho Chúa Kitô nhiều linh hồn.
Khi ta nghe xong lời ấy, ta có thể trách móc và "đấu" lại với Thánh Phaolô
rằng con chẳng có gì để loan báo Tin Mừng cả ! Thế nhưng, trong sâu lắng của
cuộc đời, ta vẫn còn sống là ta vẫn còn loan báo Tin Mừng bằng đời sống lao động,
cầu nguyện của ta đó.
Như Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, trong hoàn cảnh hiện tại, đời sống cầu
nguyện của Ngài phải chăng là một đời sống lao động tuyệt vời. Không còn làm
việc công khai, không còn lao nhọc công khai nữa nhưng Đức Tổng vẫn kết hiệp mật
thiết đời mình với Chúa hơn qua lời cầu nguyện.
Có thể ta già nua tuổi tác, có thể ta bị tai biến như người trung niên đã
nói ở trên và có khi ta nghèo nhưng ta vẫn lao động, vẫn cầu nguyện được trong
hoàn cảnh của ta. Xin Chúa thêm ơn cho ta để ngày mỗi ngày ta biết lao động như
Chúa đã từng lao động để rồi ta thấy cuộc đời ta có ích hơn, ý nghĩa hơn nhất là
khi ta kết hợp mật thiết hơn với Chúa qua lời cầu nguyện của ta.
Huệ Minh