.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

I - Bốn Mươi Năm Nhìn Lại

II - Hoài Niệm Của Một Vị Hồng Y Nghị Phụ Người Canada

III - Công Đồng Vatican II - Hôm Qua Và Hôm Nay

IV - Mười Sáu Văn Kiện Được Công Đồng Vatican II Chuẩn Nhận

V - Công Đồng Chung Và Thượng Hội Đồng Giám Mục

VI - Đức Giáo Hoàng Phaolô II Điều Hướng Và Kiện Toàn Công Đồng Vatican II

VII - Những Thay Đổi Phụng Vụ

VIII - Sự Chuyển Hướng Về Phía Giáo Dân

IX - Quan Niệm Hôn Nhân Thay Đổi Kể Cả Đối Với Những Người Không Công Giáo

X - Tự Do Tôn Giáo - Hiện Đại Hoá Những Quan Hệ Giữa Giáo Hội Và Nhà Nước

XI - Hồi Tưởng Những Năm Lịch Sử Công Đồng Vatican II Của Một Số Chuyên Viên Hoa Kỳ Còn Sống

XII - Một Linh Mục Dòng Tên Chuyên Viên Vẫn Tiếp Tục Khảo Sát Sự Thực Thi Công Đồng Vatican II

XIII - Vai Trò Của Đức Thánh Cha Bênêditô XVI

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Công Đồng Vatican II qua bốn thập niên
Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh
III - CÔNG ĐỒNG VATICAN II - HÔM QUA VÀ HÔM NAY

Bốn mươi năm sau khi Công Đồng Vatican II bế mạc, sự thay đổi sâu xa đang còn vang động trong lòng Giáo Hội từ những hành lang giáo đô Vatican cho đến những dãy ghế trong những giáo xứ địa phương. Bốn khóa họp của Công Đồng từ 1962 đến 1965 và 16 văn kiện hiện đại hóa về phụng vụ, đổi mới nếp sống linh mục và tu sĩ, đề cao vai trò giáo dân, việc mở ra những cuộc đối thoại với các giáo hội khác và với những người ngoài Kitô giáo, cùng sự nhận diện Giáo Hội như là “dân Chúa” đã hài hòa những vấn nạn và niềm hy vọng của thế giới.Mặc dù Công Đồng không đưa ra một tín lý mới, nhưng những tín hữu Công giáo sống qua thời đại Công Đồng Vatican II không bao giờ quên được những thay đổi, đôi khi đột xuất, đã xảy ra trong những cộng đoàn Giáo Hội vào thập niên 1960. Vào ngày 25-01-1959, Đức Thánh Cha Gioan XXIII công bố ý định triệu tập Công Đồng II. Đó là công đồng chung thứ 21 trong lịch sử Giáo Hội. Trong bốn khóa họp của Công Đồng từ 1962 đến 1965, có 147 biên bản và 2,212 diễn văn cũng như 4,361 bài can thiệp bằng viết. Vào năm 1962 có 2,908 nghị phụ hợp lệ. Số giám mục tham dự trung bình hằng ngày là 2,200 vị. Có 460 chuyên viên được chính thức bổ nhiệm, gồm 235 linh mục triều, 45 linh mục Dòng Tên, 42 linh mục Dòng Đa-Minh và 15 linh mục Dòng Phan-xi-cô.Công Đồng có 168 cuộc họp công khai với 10 cuộc họp khoáng đại.

 Diễn tiến của Công Đồng

 1958 :Đức Thánh Cha Gioan XXIII lên ngôi giáo hoàng ngày 28 tháng 10.

 1959: Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII công bố kế hoạch triệu tập Công Đồng. Khi ký văn kiện triệu tập, Đức Thánh Cha đã minh định: xã hội tân tiến đang có nhiều tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, nhưng không có sự tiến bộ tương ứng về phong hóa. Vì vậy Ngài sẽ triệu tập Công Đồng để Giáo Hội có thể đóng góp một cách tích cực cho một giải pháp đối với những vấn nạn của thời đại tân tiến.

 1962: Đức Thánh Cha Gioan XXIII, khi khai mạc, đã tuyên bố mục tiêu của Công Đồng nhằm tiêu trừ những mầm mống bất hòa và cổ võ hòa bình cùng hợp nhất giữa cộng đồng nhân loại.

 KHÓA I kéo dài từ ngày 11 tháng 10 đến ngày 8 tháng 12, bao gồm 36 cuộc họp công khai.

 1963: Đức Thánh Cha Phao-lồ VI lên ngôi giáo hoàng ngày 21 tháng 6.

 KHÓA II kéo dài từ ngày 29 tháng 9 đến ngày 4 tháng 12, bao gồm 43 cuộc họp công khai và kết thúc với những văn kiện về phụng vụ và truyền thông xã hội.

 1964: KHÓA III kéo dài từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 21 tháng 11 bao gồm 48 cuộc họp công khai và kết thúc với sự công bố Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội và tách rời những sắc lệnh về đại kết với các sắc lệnh về các Giáo Hội Công giáo Đông phương.

1965: KHÓA IV kéo dài từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 8 tháng 12 bao gồm 41 cuộc họp công khai và kết thúc với những sắc lệnh về chức vụ giám mục, đào tạo linh mục, đời sống tu sĩ, mục vụ của linh mục, sinh hoạt truyền giáo và vai trò giáo dân. Ngoài ra còn có những tuyên cáo về giáo dục Kitô giáo, tự do tôn giáo và liên lạc với các tôn giáo ngoài Kitô giáo; Hiến Chế Mục vụ của Giáo Hội đối với Thế Giới Tân Tiến và Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Chúa.

 Những cải tiến của Công Đồng

 Trước hết bàn thờ được xoay lại để linh mục đối diện với giáo dân. Thánh Lễ bằng La ngữ được thay thế bằng Thánh Lễ dùng ngôn ngữ bản xứ. Việc thi hành các bí tích khác được cập nhật hóa và đơn giản hóa. Những nam nữ tu sĩ chấp nhận một kiểu tu phục tân thời hơn. Không phải mọi thay đổi đều xảy ra tức thời, tuy nhiên các vị lãnh đạo Giáo Hội đã bắt đầu một tiến trình lâu dài và đôi khi có phần xung khắc về việc duyệt lại hầu hết mọi lãnh vực thuộc đời sống mục vụ, từ việc dạy giáo lý cho đến tông đồ giáo dân. Cha Dario Vitali giảng dạy môn lịch sử Giáo Hội ở Đại Học Giáo Hoàng tại Vatican đã nói: “Công Đồng biểu hiệu một cuộc cách mạng của Copernic đối với Giáo Hội đang tự thách đố mình bằng cách tự vấn làm thế nào Giáo Hội có thể nối lại cuộc đối thoại với thế giới tân tiến. Qua Công Đồng, Giáo Hội tiến lại gần hơn với những người nam cũng như người nữ hiện đại và làm cho Phúc Âm có ý nghĩa hơn đối với họ. Nếu không có Công Đồng Vatican II, tôi thiết nghĩ Giáo Hội ngày nay có thể trở thành một nhóm nhỏ, co cụm lại với những lễ nghi mà não trạng tân tiến hiện đại không thể hiểu được.”

 Không phải mọi viên chức trong Giáo Hội nhìn xem Công Đồng một cách tích cực. Một số tín hữu Công giáo còn luyến tiếc việc phụng vụ của thời xa xưa và đôi khi một số viên chức Giáo Hội, kể cả nhiều vị ở tại giáo triều Roma, đã công kích cách thức mà người ta am tường và thực thi những huấn thị của Công Đồng. Trong nhiều trường hợp, cuộc tranh luận phản ảnh những vấn đề đã tranh cãi sôi nổi ngay trong thời Công Đồng.

 Ngày 8 tháng 12 năm nay (2005) kỷ niệm ngày bế mạc Công Đồng vào năm 1965, và mùa thu năm nay, thành phố Roma và giáo đô Vatican đã tiếp đón nhiều cuộc gặp gỡ để duyệt lại việc Giáo Hội đã dấn thân như thế nào trong bốn thập niên qua.

 Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã tham dự Công Đồng với tư cách là một chuyên viên thần học, đã nhắc tới tầm mức quan trọng của những văn kiện Công Đồng. Mặc dù Ngài có công kích một vài sự đổi thay trong thời hậu Công Đồng, Đức Thánh Cha đã công bố rõ ràng là Vatican II sẽ là “kim chỉ nam” đối với triều đại giáo hoàng của Ngài. Đã hẵn kim chỉ nam định rõ phương hướng, vì vậy tùy vị tân Giáo Hoàng sẽ cung cấp chi tiết.Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh việc kiện toàn Công Đồng là một công tác đang triển khai trong lòng Giáo Hội, chứ không chỉ là một biến cố đã xảy ra cách đây 40 năm. Mục tiêu chắc chắn là đừng làm cho Công Đồng Vatican II trở thành một sự kiện lịch sử xa xưa đối với những thế hệ trẻ thuộc tầng lớp giáo hữu ngày nay.Alberto Melloni, một sử gia về Giáo Hội học trong thời đại Công Đồng Vatican II đã nói: “Những tín hữu Công giáo trẻ trung hơn có thể không quan tâm đến Công Đồng trên bình diện trí thức, nhưng họ tiếp tục chứng nghiệm những thành quả của Công Đồng. Nhờ Công Đồng, giới trẻ được chỉ bảo cho biết thế giới không phải là mối đe dọa đối với đời sống Kitô hữu, nhưng là một cơ hội để loan báo Tin Mừng.”

 Vatican II đôi khi được mô tả như một cuộc cách mạng, nhưng Công Đồng diễn ra không phải hoàn toàn bất ngờ. Đã có 20 công đồng trước kia qua suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, kể cả Công Đồng Vatican I vào những năm 1869-1870. Vatican I xác định tín điều giáo hoàng bất khả ngộ và tính ưu việt thuộc quyền tài phán của giáo hoàng, nhưng công đồng nầy đã đình chỉ khi chiến tranh xảy ra ở Âu châu và không bao giờ bắt đầu trở lại.Sự hăng say về thần học vào giữa thế kỷ 20 đã giúp xây đắp nền móng cho Công Đồng Vatican II. Những nhà thần học đi tiên phong như linh mục Dòng Đa-Minh Yves Congar và các linh mục Dòng Tên như John Courtney Murray và Henri de Lubac đã cố gắng bắt nhịp cầu giữa những chân lý thời xa xưa của Kitô giáo và thế giới hiện đại. Cả ba vị đều im hơi lặng tiếng theo một cung cách nào đó vào thập niên 1950, nhưng đã xuất hiện và trở thành những tiếng nói quan trọng của Công Đồng.

 Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã làm cho hầu hết mọi người sửng sốt khi công bố Ngài sẽ triệu tập Công Đồng, chỉ ba tháng sau khi được bầu làm giáo hoàng. Ngài đề cập đến nhu cầu phải cập nhựt hóa Giáo Hội và cổ võ sự hiệp nhất Kitô giáo. Ngài cho biết, trên tất cả, Ngài muốn chứng tỏ cho thế giới tân tiến là Giáo Hội đã thay đổi và được tăng cường trên bình diện trí thức.

 Đức Thánh Cha Gioan XXIII cho biết thế giới được đánh dấu bởi sự nghèo nàn về tâm linh và cần Giáo Hội tiếp sức, nhưng về sau Ngài nói rằng Giáo Hội muốn cống hiến cho thế giới tân tiến “liều thuốc của lòng từ bi” chứ không phải sự kết án nghiêm khắc.Sự chuẩn bị cho Công Đồng gần ba năm và Đức Thánh Cha Gioan XXIII mặc dù được chẩn đoán bị ung thư khi công Đồng khai mạc, đã chủ tọa khóa I vào mùa thu 1962 là khóa đầu tiên trong tất cả bốn khóa đều xảy ra cũng vào mùa thu. Sự mời gọi những viên chức thuộc Tin Lành, Chính Thống và những thành phần khác không thuộc Công giáo tham dự Công Đồng đã làm cho Vatican II trở thành một biến cố lịch sử.

 Đức Giáo Hoàng Phaolồ VI đã hướng dẫn để công tác của Công Đồng được hoàn tất, bằng cách chủ tọa ba khóa họp kia và điều hướng sự liên tục của những công tác quan trọng thuộc các lãnh vực phụng vụ, đại kết, đời sống tu sĩ và Phúc Âm hóa.Khoảng 2,000 đến 2,500 giám mục đã tham dự mỗi khóa họp của Công Đồng và các tham dự viên cho biết những cuộc thảo luận được xếp loại từ phát biểu tự do với lời lẽ ôn tồn cho tới cả việc tranh cãi không phải là không có. Một thí dụ khi bảng dự thảo đầu tiên của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (tức “Lumen Gentium” - Ánh Sáng Muôn Dân) được trình bày, đã bị công kích thẳng thắn là mang tính chất khải hoàn ca, có tính cách giáo sĩ và nhằm hợp pháp hóa. Văn kiện đã được chấp thuận sau hai năm với nhiều tu chính.

Ngay từ đầu, các giám mục xác nhận rằng vai trò của họ không chỉ cập nhật hóa những việc thực hành đạo giáo mà còn là một tiến trình “trở về nguồn”, hay trở về với nguồn cội Đức Tin. Ở giữa các tham dự vên có một cảm thức chung là họ thực sự đang làm nên lịch sử, như Đức Giám Mục Frank Fernando ở Chilaw, Sri Lanka, đã phát biểu. Ngài là một trong số ít những người còn hăng say hoạt động trong những giám mục đã tham dự ít nhất một khóa họp của Công Đồng. Ngài nói: “Cuộc thào luận rất có phương pháp, với nhiều trao đổi quan điểm. Văn kiện được trình đi trình lại với nhiều tu chính mà các giám mục đã nghiên cứu. Do đó những văn kiện của Công Đồng được gọt dũa, chứ không phải là những tài liệu được trình bày hôm nay và hôm sau được thông qua.” Cuối cùng, Công Đồng đã ban bố bốn hiến chế về phụng vụ, bản chất và cơ cấu Giáo Hội, Giáo Hội trong thế giới hiện đại và mặc khải của Chúa. Công Đồng cũng ban hành chín sắc lệnh về Giáo Hội và truyền thông, đại kết, các Giáo Hội Công giáo Đông phương, các giám mục, sự đào tạo linh mục, đời sống tu sĩ, giáo dân và hoạt động thừa sai. Công đồng cũng đã ban bố ba tuyên ngôn về các tôn giáo không thuộc Kitô giáo, nền giáo dục Kitô giáo và tự do tôn giáo.

 Phần đông các chuyên viên đã liệt kê những thành quả lớn lao của Công Đồng như là một đường hướng giúp hiểu rõ Giáo Hội như là “dân Chúa” và không chỉ là một cơ cấu cấp bực và như là “bí tích” cho thế giới với một sứ vụ tích cực trong mọi lãnh vực của xã hội nhân sinh.  Hiến chế “Ánh Sáng Muôn Dân” đã trình bày Giáo Hội như là một huyền nhiệm và một cộng đoàn các tín hữu đã được nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy đang tiến tới quê trời như là một nhiệm thể thánh thiện, tuy nhiên bất toàn trong khi đang ở nơi trần thế. Văn kiện đã nói rõ là mặc dù tổ chức theo đẳng cấp, Giáo Hội trong tư cách một cộng đồng là nhiệm thể sống động mà những thành phần được mời gọi nên thánh và mỗi một thành viên giữ một vai trò riêng, có những đặc quyền và trách nhiệm riêng.

 Hiến Chế về Mục Vụ Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến (“Vui Mừng và Hy Vọng”) được viết ra cho những độc giả trung bình hơn và được chấp thuận vào năm 1965, trong cuộc bỏ phiếu cuối cùng của Công Đồng. Đức Giám Mục Fernando nhớ lại thời gian đó rất rõ và ngài cho biết Hiến Chế “Vui Mầng và Hy Vọng” là văn kiện quan trọng hơn hết mà Công Đồng đã ban bố. Ngài còn nói thêm: nhiều giám mục nghĩ rằng những văn kiện đầu tiên của Công Đồng nhắm tới những chuyên viên và mong muốn văn kiện sau cùng nầy chuyển tải một sứ điệp cho toàn thế giới.  “Vui Mầng và Hy Vọng” kêu gọi Giáo Hội dấn thân đối thoại với xã hội hiện đại và những vấn nạn của xã hội đó, mang giáo huấn và những giá trị luân lý của Giáo Hội cho một thế giới quá tả tơi bởi hận thù, chiến tranh và bất công. Văn kiện nhận chân khoa học và văn hóa có những điều để ban bố cho Giáo Hội, nhưng văn kiện cũng xác định Giáo Hội có sứ mệnh thánh hóa thế giới chung quanh.  Trong những năm sau khi Công Đồng bế mạc, sự đổi mới mà Công Đồng phác họa đã được tinh luyện và soạn thành những điều luật bằng một số sắc lệnh, quy tắc và những thay đổi trong giáo luật. Giáo Hội đã chứng kiến rất nhiều đổi thay:

 -         Quyển “Sách Lễ Roma mới” được ấn hành năm 1970 với một chu kỳ mới gồm những bài đọc nhằm cống hiến một sự chọn lựa phong phú những đoạn Thánh Kinh thích ứng. Năm phụng vụ được đơn giản hóa. Những nghi thức bí tích được duyệt lại nhằm nhấn mạnh đến những khía cạnh có tính cách cộng đồng trong việc hiến tế. Nghi Thức Khai Tâm đối với người trưởng thành được phục hồi và cải tiến. Với những thay đổi đang tiến hành, sự tham gia phụng vụ cách tích cực đã gia tăng một cách đột ngột trong nhiều cộng đoàn địa phương của Giáo Hội.

 -         “Mục vụ giáo dân” được gia tăng bội phần. Những giáo dân đọc sách thánh và làm thừa tác viên Thánh Thể xuất hiện trong các Thánh Lễ. Giáo dân được đại diện trong các hội đồng giáo xứ và những ủy ban giáo phận. Những nam nữ giáo dân mà nhiều người có văn bằng thần học đã thay thế các giáo sĩ trong nhiều chức vụ điều hành Giáo Hội.

 -         Bàng bạc trong Giáo Hội, người ta chú tâm đổi mới việc “học hỏi Thánh Kinh”, phụng vụ và nền linh đạo có tính cách riêng tư.

 -         Các “Giáo Hội Công giáo Đông phương” được khuyến khích trở về với những truyền thống riêng của họ, chấm dứt một thời kỳ La ngữ hóa và mở ra một sự đánh giá mới về tính cách đa dạng trong lòng Giáo Hội hoàn vũ.

 -         Vấn đề “đại kết” được phong phú hóa qua những cuộc đối thoại chính thức giữa các viên chức Công giáo và các giáo hội Kitô giáo khác cũng như trong các buổi cầu nguyện hay trao đổi thân mật ở các cấp địa phương.

 -         Sau khi Công Đồng công nhận có thể có sự cứu rỗi đối với những người ngoài Kitô giáo, Giáo Hội cũng bắt đầu “đối thoại với các tôn giáo khác”.

 -         “Đời sống tu trì” cũng thay đổi một cách đột xuất, như các hội dòng chấp nhận những qui tắc và viết lại hiến pháp, có một cái nhìn mới liên quan đến quyền bính, cộng đoàn và căn tính.

 -         Công Đồng tái lập chức “phó tế vĩnh viễn” như một thánh chức và cho phép các người nam lập gia đình được tấn phong phó tế vĩnh viễn. Hiện nay có hơn 19,000 phó tế vĩnh viễn trên thế giới.

 -         Công Đồng dạy rằng Đức Giáo Hoàng cùng với các giám mục làm thành một cơ cấu chung đưa tới việc thành lập những hội đồng giám mục. “Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới” được thành lập để gặp gỡ thường xuyên và cố vấn cho Đức Thánh Cha.

 -         Nền “thần học” được phục hoạt, nhất là nền thần học luân lý, càng ngày càng tập trung vào nguồn gốc Thánh kinh và lương tâm cá nhân, hơn là luật lệ và quyền bính Giáo Hội.

 -         Công Đồng nhấn mạnh sự liên đới với nhân loại thay vì phân cách khỏi thế giới trần tục và điều đó dẫn tới sự nở rộ những “sinh hoạt bác ái xã hội”. Những cấp lãnh đạo Giáo Hội thường xuyên nhắc nhở đến sự đồng nhất hóa của Giáo Hội với những người nghèo và người đau khổ và Đức Giáo Hoàng trở thành người biện hộ cho nhân quyền mạnh mẽ nhất.

 -         Cùng một trật, Giáo Hội trải qua một số “diễn biến đầy ưu tư”, như việc giảm sút thê thảm về ơn gọi và sự gia tăng số lượng đối với nhiều linh mục và tu sĩ xin hoàn tục. Số người tham dự Thánh Lễ giảm xuống ở nhiều nơi, nhiều người không đi xưng tội và sự bất đồng quan điểm đối với một số giáo huấn như ngừa thai đang lan tràn.

 -         Tất cả những điều đó đã làm hâm nóng trở lại cuộc tranh luận qua bốn thập niên nên cần thiết “phải đọc lại một cách thích đáng” và nhất là việc “thực thi Công Đồng”. Đức Thánh Cha Bênêditô XVI trước đây đôi khi đã lên tiếng chỉ trích trong các cuộc tranh luận đó, nhưng Ngài luôn phân biệt rõ rệt giữa Công Đồng và việc thực thi những giáo huấn của Công Đồng. Ngài đã cho biết điều làm thương tổn Giáo Hội trong thập niên tiếp theo sau Công Đồng Vatican II “không phải Công Đồng nhưng là sự chối từ chấp nhận Công Đồng.”

 (Phỏng theo John Thavis - Vatican City - CNS)

Tác giả Nhà Văn Hương Vĩnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!