.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời Giới Thiệu

Đôi Dòng Về Tác Giả

1. Kinh nghiệm góp nhặt trên đường đời tôi

2. Ánh sáng chói loà của Thánh Kinh

3. Nhận hiểu ý nghĩa và mục đích sâu xa hơn của ơn gọi Linh Mục

4. Chức Linh Mục trong buổi ban đầu

5. Khuôn mặt người Linh Mục qua giòng lịch sử

6. Chức Linh Mục và đời sống chủng viện theo mẫu thức TRIĐENTINÔ

7. Những vấn nạn xung quanh vấn đề độc thân

8. Khuôn mặt Linh Mục thời công đồng và sau công đồng

9. Dự đoán tương lai của ơn gọi Linh Mục

10. Những con vật trên tàu NÔ-E hôm nay

11. Này tôi là nữ tì của Đức Chúa!

lời nguyện đúc kết

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Giáo Hội cần loại Linh Mục nào?
Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức
Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
9. DỰ ĐOÁN TƯƠNG LAI CỦA ƠN GỌI LINH MỤC

Câu hỏi về tương lai của ơn gọi linh mục có thể là một câu hỏi vô cùng nhức nhối nếu sự bàn luận chỉ hoàn toàn xoáy vào tình trạng khan hiếm linh mục – và không dành sự lưu tâm đến các dấu chỉ của thời đại và đến ơn gọi căn bản của mọi Kitôhữu. Một nhãn giới như thế sẽ quá chật hẹp, thậm chí có thể tai hại cho sứ mạng của Giáo Hội. Vì thế, tôi nghĩ rằng chúng ta phải dám có một cái nhìn mới đối với ơn gọi Kitôhữu mà mọi người chúng ta đều đang đảm nhận, nhất là nhìn trong ánh sáng của phép rửa mà Đức Giêsu nhận lãnh bởi tay Gioan ở sông Giođan.

một nhãn quan

hoàn toàn mới

Ơn gọi của Đức Kitô – mà chúng ta được mời gọi tham dự vào – tiên vàn là ơn gọi của Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê nhằm đem lại ơn cứu độ và hòa bình cho thế giới. Đời sống công khai của Đức Giêsu – qui hướng đến việc công bố tin mừng về cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài – là một đời sống được xây dựng từ mối quan hệ của Ngài với Chúa Cha: “Con là Con Yêu Dấu của Ta” (Mc 1,11). Đức Giêsu được gọi và được xức dầu để gánh lấy tất cả gánh nặng của nhân loại trong mối liên đới có năng lực cứu độ - để giải phóng nhân loại khỏi mối liên đới trong tội lỗi, một mối liên đới hủy diệt. Người là vị ngôn sứ bước đi trước chúng ta, giới thiệu cho chúng ta con đường hòa bình, phi bạo lực và chỉ cho chúng ta thấy sức mạnh của tình yêu nhằm chuyển hóa những kẻ thù địch thành bạn hữu.

Ngay sau biến cố phép rửa của Đức Giêsu, Tin Mừng Matthêu đưa ra cho chúng ta một trong những chìa khóa chính yếu để hiểu nhiệm cục cứu độ. Đó là việc lột trần những cám dỗ quỉ quyệt nhất của Satan bằng cách cho thấy rõ những kỳ vọng sai lạc về một Mêsia đầy cường quyền và bạo lực, và bằng cách phơi trần những sự lạm dụng tôn giáo nhằm tranh thủ lợi lộc, quyền thế và danh vọng trần gian. Mặc dù các cám dỗ vây kín Đức Giêsu từ mọi phía, chúng hoàn toàn không có quyền lực nào trên Ngài. Chính vì ích lợi của chúng ta mà Đức Giêsu đã – một lần cho tất cả – vạch mặt tất cả các cám dỗ ấy xuyên qua sự trung thành tuyệt đối với ơn gọi của Ngài trong tư cách là Người Con và Người Tôi Tớ đau khổ, phi bạo lực của Thiên Chúa.

Nhận thức nói trên về ơn gọi của Đức Giêsu thiết yếu có quan hệ với nhận thức của chúng ta về ơn gọi Kitôhữu của mình. Vì thế, có thể thấy rõ rằng tướng lai của tất cả các ơn gọi Kitôhữu tùy thuộc vào mức độ trung thành của chúng ta trong việc đi theo bước chân của Người Tôi Tớ Giavê trong bối cảnh mới này. Từ thời đại Constantine, và gần như cho đến tận hôm nay, phần đông người ta là Kitôhữu do huyết thống, tức ‘cha nào con nấy’. Ngày nay, kiểu thức mới rõ ràng thúc giục chúng ta trở thành Kitôhữu do chọn lựa, do ơn gọi. Điều này có nghĩa rằng tương lai của Giáo Hội sẽ được ấn định không chỉ bởi những “ơn gọi” của một tầng lớp đặc thù nào đó, mà nhất là bởi tất cả những ai – với ý thức của chính mình – quyết định chọn lựa đi theo Đức Giêsu, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Thiên Chúa. Sự khác biệt giữa một bên là những người sống một cách ý thức và thuyết phục chuẩn mực của phép rửa Đức Giêsu ở sông Giođan bằng Thánh Thần và bằng máu và bên kia là những người Công Giáo do di truyền vốn chỉ theo Chúa một cách uể oải và thụ động – sự khác biệt ấy mới đáng kể hơn nhiều so với sự khác biệt giữa chức linh mục phổ quát và chức linh mục thừa tác. Điều thật sự đặc trưng người Kitôhữu là chiều sâu ý thức của họ về ý nghĩa của việc mình được Đức Kitô kêu gọi để phục vụ cho Vương Quốc của Người Tôi Tớ Giavê, và sự kiên vững của họ trong việc đảm nhận ơn gọi căn bản này.

Nhãn quan nói trên là nền tảng chắc chắn cho mọi ơn gọi Kitôhữu, bao gồm cả đời sống linh mục theo nghĩa hẹp hơn. Đây không phải là một ý tưởng hoàn toàn mới mẻ. Bố mẹ tôi là những Kitôhữu do di truyền, song qua cuộc sống của mình, các ngài đã trở thành Kitôhữu do chọn lựa – và trong khi các ngài sống tận lực ơn gọi làm vợ chồng và làm cha mẹ của mình, các ngài cũng dấn thân một cách đầy sáng tạo vào đời sống của Giáo Hội. Các ngài là những nông dân trong ánh nhìn của Đấng Sáng Tạo, là bạn hữu của những người nghèo, và đồng thời các ngài cũng đương đầu với bao nguy hiểm lớn lao trong sự phản kháng đầy dũng cảm và kiên quyết đối với chế độ Hitler.

Robert Schuman, bạn đồng sự của Alcide De Gaspari và Konrad Adenauer, là một trong những nhà hòa giải hàng đầu của Trung Âu, đã từng trải qua một thời gian phân vân giữa hai sự chọn lựa: làm linh mục hay trở thành một chính trị gia chuyên nghiệp! Một linh mục đã góp ý với anh rằng trong lãnh vực chính trị anh sẽ chu toàn ơn gọi Kitôhữu của mình tốt hơn là trong chức linh mục thừa tác – và thế giới cũng như Giáo Hội phải đặc biệt mang ơn vị linh mục tư vấn ấy. Hồi còn là một giáo sư trẻ, tôi có dịp quen biết De Gaspari và gia đình anh ta. Với thái độ đơn sơ không ngờ, anh đã giúp lễ cho tôi trong rất nhiều lần tôi dâng lễ. Đó là những con người tuyệt diệu! Họ chu toàn ơn gọi Kitôhữu của mình qua việc làm chứng cho Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê.

Tôi không hề có ý làm giảm giá trị của ơn gọi linh mục – vì những giá trị này vốn quá rõ ràng! Tuy nhiên tôi dám nói rằng tương lai của Giáo Hội và của các ơn gọi linh mục tùy thuộc vào một bước chuyển biến triệt để từ kiểu thức Constantine sang kiểu thức một ơn gọi được tự nguyện chọn lựa – một ơn gọi mà trong đó người ta xua đuổi bằng mọi giá bất cứ ý tưởng tham quyền cố vị nào. Một bước chuyển biến như thế đương nhiên bao hàm trong đó một cái nhìn mới về ơn gọi linh mục thừa tác. Sẽ có đủ số ơn gọi linh mục, nếu tiêu điểm chính yếu được nhắm vào ơn gọi theo một ý nghĩa rộng hơn nhưng có tính chuyên biệt Kitôgiáo hơn, và dĩ nhiên luôn luôn ở trong nhãn quan về ơn cứu độ của thế giới. 

Thật sung sướng biết bao khi chúng ta gặp được những bác sĩ y khoa và những chuyên viên trị liệu thể hiện ơn gọi Kitôhữu một cách thuyết phục trong tư cách là những thầy thuốc và, đồng thời, làm chứng cho Đức Kitô Đấng Chữa Trị! Cũng vậy, chúng ta kỳ vọng gặp được các luật sư là những người làm việc cách tận tụy và khôn ngoan để xây dựng những luật pháp nhân văn hơn và ứng dụng luật một cách tốt hơn – và đồng thời là những người, qua nghề nghiệp của mình, giới thiệu được Đức Kitô Đấng đã đến không phải để xét xử nhưng là để chữa trị.

Ở đây tôi nghĩ đến một cựu sinh viên của mình – anh rất mê học thần học nhưng không cảm thấy mình được gọi sống độc thân. Trong tư cách là một thẩm phán của tòa án xét xử người vị thành niên, anh đã phát triển được một khả năng chữa trị đầy sáng tạo. Thay vì gửi những người trẻ phạm pháp vào tù, anh đã cung ứng cho họ các cơ hội trị liệu – qua việc phục vụ cộng đồng - để giúp họ đổi đời. Chẳng hạn, những người trẻ này được yêu cầu đi thăm viếng các bệnh nhân và các người già lão, đôi khi mang theo hoa để tặng và tự đề xuất các công việc khác nhau mình có thể làm để phục vụ. Những người trẻ này được yêu cầu không cho những người mà họ thăm viếng biết rằng luật pháp đòi họ làm công việc này như biện pháp sửa chữa sự sai quấy của họ, nhất là – như trong trường hợp này - chính vị thẩm phán cũng không đưa qui chế này ra như một hình phạt.

Có thể viết cả một quyển sách về những nghề nghiệp khác nhau và những phương thức khác nhau mà qua đó người ta có thể sống triệt để ơn gọi Kitôhữu của mình nhằm phục vụ cho ơn cứu độ của thế giới – và trong một cách thế mà trong đó kiểu thức mới “Kitôhữu do chọn lựa” có thể đi vào cụ thể trong xác thịt. Tôi không hề ái ngại rằng một nhãn quan như thế có thể làm phương hại cho ơn gọi linh mục hiểu theo nghĩa chuyên biệt. Trái lại, tôi tin rằng tính đích thực của ơn gọi linh mục có thể được củng cố rất nhiều nhờ một nhãn quan như vậy.

 

Giáo Hội có nên nhìn nhận

tính bí tích

nơi các ơn gọi sứ vụ khác nhau không?

Qua việc canh tân giáo thuyết về chức linh mục phổ quát của các tín hữu và qua việc minh nhiên ủy trao nhiều hoạt động tông đồ khác nhau của Giáo Hội cho các giáo dân nam cũng như nữ, Công Đồng Vatican II có một sự đóng góp đúng đắn và hợp thời vào vấn đề ơn gọi. Trên khắp thế giới, mặc dù trong những mức độ khác nhau và bằng những phương thức khác nhau, một tầng lớp “giáo sĩ” mới, vốn không phải là giáo sĩ, đã xuất hiện.

Tôi đã ghi nhận sự phát triển này, đặc biệt ở Phi Châu, với niềm vui mừng và tin tưởng dạt dào. Hàng ngàn giảng viên giáo lý được huấn luyện chu đáo cùng với các người vợ đầy quảng đại của họ đang thực tế đảm nhận mọi công việc của giáo xứ: dạy giáo lý, huấn giáo cho người lớn, hòa giải, xây dựng cộng đoàn, săn sóc bệnh nhân và người  nghèo, cử hành rửa tội và, vào các Chúa Nhật, cử hành phụng vụ Lời Chúa và chủ tọa việc rước lễ. Đấy là chỉ liệt kê một số có tính tượng trưng!

Trong ánh sáng của những đóng góp thật đáng nể ấy, tôi tự hỏi: Có nên đòi hỏi những người này phải vượt qua những quãng đường dài – đi bộ hoặc bằng xe đạp – để nhận Bánh Thánh đã được truyền phép? Xem xét tất cả những gì những người này đã làm từ quan điểm luật, ta thấy họ vẫn không thông dự vào chức linh mục được thiết định theo bí tích. Đa số những người này không có ý định lãnh chức phó tế, vì điều đó có nghĩa rằng họ phải đảm nhận đời sống độc thân nếu vợ họ qua đời. Hơn nữa, trong văn hóa Phi Châu hiện nay, làm sao người ta có thể quan niệm được một sự độc thân như vậy?

Họ không thể cử hành Bí Tích Xức Dầu, một bí tích có ý nghĩa rất thâm sâu trong văn hóa Phi Châu. Trong quan điểm cá nhân của mình, tôi không thấy có gì trở ngại để thay đổi trong vấn đề này. Chẳng phải cuộc đời của Đức Giêsu và hoạt động của Chúa Thánh Thần vẫn mời gọi Giáo Hội: “Hãy biết sáng tạo!” đó sao?

Chưa bao giờ trong lịch sử Giáo Hội đã từng có nhiều người nam nữ giàu khả năng và có căn bản thần học như ngày nay. Hiện nay, con số người có năng lực trong Giáo Hội còn đông hơn cả mười tám thế kỷ trước đây gộp lại. Vậy thì, tại sao chúng ta lại than vãn về tình trạng thiếu các ơn gọi Kitôhữu trong  Giáo Hội?

Cùng với vị đương kim giáo hoàng, chúng ta vẫn sốt sắng cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục độc thân. Nhiều người đã buông trôi nhiệt tình này do không tìm thấy câu trả lời cho những suy nghĩ và những vấn nạn hợp lý – chẳng hạn: Tại sao chúng ta bảo Chúa Thánh Thần rằng các linh mục chỉ nên được ban cho Giáo Hội xuyên qua ngả đường độc thân? Phải chăng chúng ta nghĩ rằng Chúa Thánh Thần vui sướng khi chúng ta, những người trong Giáo Hội, ấn định độ rộng của lỗ kim để qua đó Chúa Thánh Thần sẽ chuyển trao cho Giáo Hội những ơn gọi cần kíp nhất? Có còn ngẫu tượng nào quái gở hơn là áp đặt ý muốn của con người cho Chúa Thánh Thần hoặc ‘đóng hộp’ Chúa Thánh Thần trong những phạm trù chật hẹp của tư tưởng chúng ta không? Nếu các Tông Đồ và những vị kế nhiệm đầu tiên của các ngài hành động như vậy – nghĩa là áp đặt những loại qui định ấy cho Chúa Thánh Thần – thì hẳn các ngài đã phải bỏ vợ và, nhất là, hẳn các ngài đã phải bỏ mặc gần như  tất cả các cộng đoàn Kitôhữu chơ vơ không có Thánh Thể.

Tôi muốn nhắc lại ở đây: Độc thân, xét như là một đặc sủng được ban phát nhưng không của Chúa Thánh Thần, là một ân huệ cao quí, nhưng các giới thẩm quyền Giáo Hội phải chọn lựa với đầy đủ cân nhắc và sáng suốt giữa một bên là sự trung thành trọn vẹn với di chúc và lệnh truyền của Đức Giêsu – “Tất cả các con hãy lãnh nhận mà ăn, ... hãy cầm lấy mà uống” – và bên kia là một truyền thống chỉ của con người. Chúng ta không được quên rằng những người lãnh đạo trong Giáo Hội có thể trở thành mồi ngon không chỉ cho dị giáo mà còn có nguy cơ “đánh mất tính chính thống trong thực hành” (heteropraxy). Trong thời gian của Tòa Truy Tà, Giáo Hội đã từng tra tấn tàn bạo và thiêu sống những phụ nữ vô tội mà Giáo Hội cho là phù thủy. Lên án những thực hành kinh khủng ấy của quá khứ mà không tra vấn kỹ lưỡng những gì mình đang làm trong hiện tại, thì đó chỉ là một sự lấp liếm và đánh lận con đen mà thôi.

Độc thân, một đặc sủng cao quí và một chứng tá cho Nước Thiên Chúa, không thể rút giá trị của nó ra từ số lượng, nhưng đúng hơn là từ việc nó được sống một cách đích thực. Độc thân cũng không chủ yếu được hiểu trong chiều kích luật. Trái lại, hơn bất cứ gì khác, độc thân phải được đặt trong viễn tượng lời tuyên bố của Thánh Phao-lô: “Anh em không còn thuộc về Lề Luật nữa, nhưng là thuộc về ân sủng” (Rm 6,14).

 

ơn gọi tối thượng của Kitôhữu:

nêu chứng tá phi bạo lực

Các ý tưởng của tôi ở đây đã được ghi ra vào ngày hôm sau cuộc tiếp xúc của tôi với một phụ nữ can đảm tại một cuộc đại hội các thành viên của Phong Trào Pax Christi (Hòa Bình Đức Kitô). Chúng tôi đã nói chuyện về ơn gọi cao quí của những người sống chứng tá phi bạo lực vì niềm tin của mình vào Đức Giêsu Người Tôi Tớ Giavê. Câu chuyện riêng của người phụ nữ này đã làm tôi vô cùng cảm kích. Tôi đã từng đề cập đến câu chuyện này trong một chương trước, nhưng thiển nghĩ cũng rất nên nhắc lại ở đây. Chồng chị, một anh bõ nhà thờ, quyết định rằng mình thà chết trong tay chế độ Hitler chứ không tham gia vào cuộc giết hại những người khác trong một cuộc chiến tranh rõ ràng phi nghĩa. Cha sở và giám mục không ủng hộ anh. Trái lại, các vị ấy cố can gián anh với lập luận rằng, để tuân giữ luật, anh phải sẵn sàng gia nhập quân đội. Tuy nhiên, vợ anh hoàn toàn ủng hộ anh, vì chị cùng chia sẻ cách suy nghĩ của anh. Những lá thư mà anh viết cho vợ trong những ngày cuối cùng của đời mình thật vô cùng cảm động và hết sức thách đố đối với tất cả chúng ta là những người tuyên bố rằng mình tin vào tình yêu phi bạo lực của Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa. Trong một lá thư, anh viết:

Em yêu quí,

Không có cách nào chia sớt cho em những khổ đau của anh. Làm sao Đấng Cứu Chuộc chúng ta cảm nhận được nỗi lòng tan nát của Mẹ Người trong cuộc thương khó của Người! Chúa Giêsu và Mẹ Maria đau khổ vì yêu chúng ta. Anh cám ơn Chúa vì Người cho phép anh chịu đau khổ và chịu chết vì yêu Người.

Mahatma Gandhi, khuôn mặt sáng ngời của tinh thần phi bạo lực, đã lập ra những ashrams, những mái nhà để người ta cùng học hỏi và chia sẻ tinh thần phi bạo lực, nhất là theo tinh thần của Các Mối Phúc. Vì thế, há chúng ta không được phép kỳ vọng rằng những con người như Gandhi và Martin Luther King, Jr. đã nhìn cái chết của họ như một dấu ấn cho ơn gọi và sứ mạng của họ sao?

Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta có khả năng hủy diệt hành tinh của chúng ta, hoặc ngay lập tức bằng một cuộc chiến tranh nguyên tử hoặc một cách từ từ bằng sự bào mòn mọi hình thức sự sống xuyên qua những tội cá nhân và tập thể liên tục của chúng ta – qua thái độ vô trách nhiệm đối với môi trường sinh thái. Thế giới đang khẩn thiết cần có những con người như vợ chồng anh bõ nhà thờ nói trên, như Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Jr. và Dorothy Day – tất cả họ đã nghiêm túc đảm nhận ơn gọi của mình. Nếu những cuộc cử hành Thánh Thể của chúng ta không làm tuôn trào năng lực và nhiệt tâm nêu chứng tá triệt để cho công lý, hòa bình và tinh thần phi bạo lực, thì chúng ta phải xót xa kết luận rằng quá nhiều ơn gọi Kitôhữu linh mục và giáo dân của chúng ta chẳng đích thực tí nào.

Tôi cho đây mới 1à mối quan tâm khẩn thiết hơn nhiều so với mối quan tâm về con số linh mục độc thân. Sự quan tâm lo lắng của chúng ta càng gò bó chật hẹp bao nhiêu thì chúng ta càng ít chú ý đến những vấn đề thiết yếu và bao quát bấy nhiêu.

 

 

phụ nữ

và chức linh mục

Những biến cố và những tiến trình lịch sử đang diễn ra dồn dập hiện nay được ghi nhận đặc biệt rõ ràng trong liên quan với khuôn mặt mới mẻ và những vai trò xã hội của người phụ nữ. Giáo Hội sẽ thích nghi với những thay đổi này hay là sẽ tà tà chậm rãi lê gót theo sau? Trong thời đại này, cuộc phát triển của phụ nữ là một trắc nghiệm đúng lúc và có tầm quyết định đối với nhiệt tâm làm muối đất của Giáo Hội trong lịch sử nhân loại và đây cũng là một chiều kích quan trọng trong sứ vụ của Giáo Hội.

Một cái nhìn có tính đàn ông trị và nhân tạo của Giáo Hội đã gây ra nhiều vấn đề khó khăn. Chỉ cách đây vài thế kỷ, như thể một phép lạ việc Thánh Vincent de Paul cho phép các nữ tu rời khỏi nội cấm để phục vụ các bệnh nhân và các người nghèo mà không bị sự cản trở và can thiệp thô bạo của bản quyền Giáo Hội.

Tại thời điểm cuối thiên niên kỷ thứ hai này, đâu là tình trạng của phụ nữ trong Giáo Hội? Kinh nghiệm của phụ nữ bước đi trước rất xa so với nhãn quan có tính cơ chế hiện nay về Giáo Hội. Đã có hàng trăm, nếu không phải hàng ngàn, nữ  thần học gia đầy năng lực – con số này đông đảo hơn cả tất cả các thế kỷ trước đây gộp lại. Tuy nhiên, Vatican vẫn gây nhiều khó khăn cho phụ nữ trong việc đảm nhận các ghế ở những đại học do Giáo Hội Công Giáo đỡ đầu, nhất là nếu họ ủng hộ phong trào nữ quyền và đặt ra những chất vấn và những vấn đề thần học, chưa nói là chất vấn các giáo thuyết của Giáo Hội. Bất chấp tình trạng này, nhiều phụ nữ đã tạo được rất nhiều ảnh hưởng trong việc xâm nhập vào các đại học không bị kiểm soát bởi Rôma – và hơn thế nữa, vào các ngành thần học đại kết.

Nhiều nơi trên thế giới, phụ nữ đang được ủy thác nhiều vai trò mục vụ rất quan trọng và, trong thực tiễn, họ đã chia sẻ nhiều vai trò lãnh đạo trong Giáo Hội. Người ta thấy nhiều phụ nữ giảng tĩnh tâm và chủ tọa các khóa hội thảo ngay cả cho các linh mục – và năng lực của họ được mọi người trân trọng.

Ở bình diện giáo xứ, nhiều phụ nữ là các trợ lý mục vụ – họ đảm nhận những trách nhiệm khác nhau, trong đó gồm cả việc thăm viếng, an ủi và đem Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân. Hơn nữa, họ giúp thăng tiến giáo dân qua việc huấn luyện và đào tạo các nhóm mục vụ giáo dân để thi hành sứ vụ đối với các bệnh nhân, một sứ vụ không dừng lại ở chỉ việc thăm viếng tại các bệnh viện. Họ tổ chức và huấn luyện các nhóm giáo dân hoạt động cho công bằng xã hội nhằm mục đích thúc đẩy giáo xứ mở rộng tầm nhìn và dấn thân vào các lãnh vực xã hội đặc biệt có liên hệ tới người nghèo và những người bị áp bức. Nhiều phụ nữ làm việc trong các nhóm học hỏi Thánh Kinh tại các giáo xứ hay tại các gia đình nhằm mục đích đào sâu sự hiểu biết của người giáo dân đối với Thánh Kinh, nhất là xét như một nguồn phát triển linh đạo, và nhằm giúp các giáo dân khám phá ra con đường cụ thể để sống ơn gọi Kitôhữu của mình. Tất cả những điều nói trên đang diễn ra trong các giáo xứ nơi mà người ta đề cao tính cộng tác trong vai trò lãnh đạo mục vụ – nghĩa là nơi mà các mục tử không có cái tôi lớn quá và biết cương quyết đề kháng lại cơn cám dỗ nắm toàn quyền kiểm soát bằng cách từ chối sử dụng quyền hành trên những người khác. Thay vào đó, các mục tử này chia sẻ sức mạnh của Chúa Thánh Thần với những người khác qua việc nhìn nhận, khích lệ và vận dụng năng lực phong phú của những tín hữu đã được đào tạo tốt ngày nay.

Phụ nữ có thể cử hành Bí Tích Hòa Giải không? Nhiều phụ nữ, trong đời sống và trong sứ vụ của mình, vẫn phục vụ như những dấu hiệu bí tích của hòa bình và hòa giải. Phụ nữ được ban cho đặc ân về lòng quảng đại tha thứ, và họ có nhiều thuận lợi lớn lao trong việc quan hệ và tiếp xúc với các bệnh nhân, các người già yếu và những người hấp hối. Thật vậy, không thể kể hết ở đây những ‘thế mạnh’của phụ nữ trong lãnh vực này. Tôi có biết nhiều phụ nữ giàu đặc sủng được giám mục bổ nhiệm làm các tuyên úy bệnh viện. Dĩ nhiên, chúng ta chưa được nhìn thấy một phụ nữ ngồi ở tòa giải tội chờ các hối nhân đến xin xá giải. Thế nhưng, xưa nay vẫn không thiếu những người – cả các bệnh nhân lẫn những người lành mạnh - trong nhu cầu và trong lòng khao khát sám hối và hòa giải –tiếp tục tin tưởng và cởi mở lương tâm của họ với các phụ nữ giàu tấm lòng.

Về vấn đề này, tôi muốn chia sẻ hai ví dụ từ kinh nghiệm riêng của mình. Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, một bệnh viện dành cho các binh sĩ Đức Quốc Xã được thiết lập ở Gars, nơi hiện nay tôi đang sống. Những người lính này vốn là tù nhân chiến tranh của Mỹ. Họ lầm lì cứng cỏi, nhưng một số trong họ cảm thấy nhu cầu cần thố lộ các tội lỗi - và thậm chí các tội ác – trước đây của mình cho một nữ tu đang phụ trách săn sóc họ. Nữ tu này cầu nguyện với họ, và chị hướng dẫn họ mang nỗi khổ sở ấy của mình đến với Thiên Chúa trong tâm tình khiêm tốn và phó thác. Tôi không thể không nghĩ rằng tất cả những gì diễn ra ở đây quả thật là một khoảnh khắc bí tích còn thâm sâu hơn cả những trường hợp người ta xưng tội với các linh mục khe khắt nệ luật.

Một ví dụ khác, đó là câu chuyện về một nữ tu cao niên được bổ nhiệm làm tuyên úy tại một bệnh viện. Tại đây, chị được mọi người coi là con người đáng tín nhiệm nhất. Nhiều bệnh nhân tự nguyện cởi mở nỗi lòng với chị và trang trải cho chị nghe những gì mà lương tâm họ cho là trọng tội. Trớ trêu là có một khúc mắc ở đây. Các bệnh nhân kể cho chị biết về một linh mục tại địa phương vốn thường đến bệnh viện này hằng tuần hoặc mỗi tháng hai lần để nghe họ xưng tội – và ông ta luôn hạch sách họ về loại tội và về số lần phạm tội một cách chi li quá đáng. Giờ đây, nếu vị nữ tu tuyên úy này nói với các bệnh nhân rằng họ phải xưng tội với một linh mục – (trong nhiều trường hợp, yêu cầu này thường có nghĩa là phải xưng thú với một người cứng cỏi, khó ưa!) – thì việc xảy ra một phản ứng thất vọng nơi các bệnh nhân của chị sẽ là điều rất bình thường, dễ hiểu. Các bệnh nhân hoặc sẽ giận, từ chối xưng tội, hay tệ hơn, họ sẽ ‘phòng thủ’ và ‘bưng bít’ hơn mỗi khi họ xưng tội với vị linh mục kia.

Vấn đề không nằm ở chỗ: “Một phụ nữ có thể cử hành được nghi thức hòa giải hay không?” Cho tới nay, chưa bao giờ phụ nữ có cơ hội thử làm nghi thức này. Tôi chỉ biết về những gì họ thực sự làm. Họ lắng nghe các bệnh nhân, cầu nguyện với các bệnh nhân, họ ca ngợi lòng quảng đại thứ tha của Thiên Chúa, họ cầu xin Chúa khắc ghi một dấu biết ơn trong cõi lòng các bệnh nhân, để rồi dấu ấn này sẽ giúp các bệnh nhân biết sẵn sàng hơn để thứ tha cho những người xúc phạm đến mình.

Phụ nữ có thể cử hành Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân không? Cho tới nay việc này cũng không được giao cho họ, nhưng thiển nghĩ thẩm quyền Giáo Hội có thể mạnh dạn trao cho các phụ nữ sứ vụ này. Tôi biết một nữ tu rất ân cần và được mọi người yêu mến, với dầu đã thánh hóa, chị xức cho bệnh nhân nếu được yêu cầu, và đồng thời chị cùng cầu nguyện với họ. Tuy nhiên, chị không dùng những công thức được qui định trong phụng vụ. Như vậy có phải chị đang cử hành bí tích không? Một cách chính thức thì câu trả lời là “không”, nhưng sự hiện diện sốt sắng và việc xức dầu đầy cảm kích của chị có thể đem lại ơn phúc dồi dào hơn là trường hợp một ‘ông cha’vội vã bước vào phòng, xức dầu cho bệnh nhân đúng theo sách nghi thức, rồi vội vã biến đi mất!

Theo giáo huấn “dứt khoát” của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, phụ nữ không bao giờ có thể cử hành Thánh Thể trong tư cách là chủ tọa - hay nói một cách chuyên môn hơn: phụ nữ không bao giờ có thể truyền phép Thánh Thể. Thế nhưng, vị kế nhiệm của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II rất có thể sẽ cảm thấy mình không bị ràng buộc bởi một lời tuyên bố như thế, nếu vị ấy biết chịu khó lắng nghe hơn không chỉ đối với các nhà thần học có năng lực và đáng tin cậy mà cả đối với cảm thức chung của những tín hữu được nhìn nhận là trưởng thành và có khả năng biện phân.

Đôi khi có người hỏi tôi: “Này, cha giải thích thế nào về sự kiện một linh mục đang mắc tội trọng vẫn có thể truyền phép Thánh Thể cách thành sự, trong khi đó một phụ nữ thánh thiện không bao giờ có thể truyền phép như thế?” Tôi thường trả lời bằng cách đặt một câu hỏi chìa khóa: “Truyền phép Thánh Thể, điều đó có nghĩa là gì? Không phải chúng tôi, các linh mục, là người truyền phép – tức làm cho cái vốn là bánh trở thành sự hiện diện của Đức Kitô. Mầu nhiệm này xảy ra qua epiklesis,[1] bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.” Thế tại sao lời cầu nguyện long trọng kêu xin Chúa Thánh Thần “xuống trên những lễ vật này và thánh hóa chúng” lại không được thốt lên từ môi miệng một phụ nữ thánh thiện, trong khi thực tế có những người đàn ông không được nhìn nhận là thánh thiện lắm lại làm được điều đó? Một đàng, tình trạng “tội chất cao như núi” của một linh mục cũng không làm cho khả năng “truyền phép” của anh ta suy suyển đi chút nào - và đàng khác, một phụ nữ, dù thánh thiện đến mấy, cũng không thể có được khả năng nói trên – tôi cảm thấy hình như nhiều người muốn coi hai điều ấy là tất nhiên như nhau. Nói cách khác, tôi tự hỏi: Phải chăng duy chỉ sự kiện người ta là phụ nữ đã là một cản trở không thể vượt qua đối với tính hiệu lực (của việc truyền phép), trong khi tình trạng tội trọng của một người đàn ông thì không liên can gì? Đây là những lấn cấn mà chúng ta không thể hòa hợp một cách thỏa mãn.

Một điều ngày nay nói chung không ai chối cãi, đó là giới thẩm quyền Giáo Hội không thể đưa ra một lý do chính đáng nào để loại trừ phụ nữ ra khỏi tất cả những cuộc thảo luận và những quyết định cốt yếu có liên quan tới nữ giới không kém chi nam giới. Phụ nữ là một nửa năng động của Giáo Hội; trước khi quyết định dứt khoát về chuyện có thể trao những tác vụ nào cho phụ nữ, thì cần phải quan tâm mời họ tham gia một cách tích cực vào trong các tiến trình thảo luận và biểu quyết tập thể. Hồi năm 1994, trong kỳ Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về đời sống thánh hiến, một giám mục đã đề nghị rằng phụ nữ nên tham gia vào trong cuộc bầu chọn giáo hoàng! Đó không phải là một đề nghị có ý nghĩa sao?

Về vấn đề truyền chức linh mục cho phụ nữ, có đủ tư liệu để cho thấy rằng lập luận truyền thống chống lại việc này không chỉ sai lạc mà còn đáng xấu hổ nữa, chưa nói là nó rất nguy hiểm về mặt thần học. Văn kiện Inter Insigniores (15-10-1976) của triều Giáo Hoàng Phao-lô VI tham chiếu đến nhiều nhà thần học Trung Cổ (thay vì là những nhà thần học hiện đại) như Bonaventura, Duns Scotus và Durandus. Tất cả những tên tuổi ấy đều đã đưa ra cùng những lập luận giống nhau và do đó cùng sai lầm như nhau. Quan điểm của Scotus được thấy là đặc biệt “cạn tàu ráo máng”:

Chức thánh là một cấp bậc cao trọng vượt trên những người khác trong Giáo Hội và dành cho một vai trò ưu việt vốn, một cách nào đó, phải được biểu hiện bởi địa vị và thế giá cao trọng. Nhưng phụ nữ tự bản chất ở trong tình trạng lệ thuộc đối với nam giới, và do đó không thể chiếm một phẩm vị cao trọng trên bất cứ người đàn ông nào ... Nếu phụ nữ có thể nhận chức thánh trong Giáo Hội, họ sẽ có thể đứng đầu và điều khiển, một điều hoàn toàn trái nghịch với tình trạng của họ ... Vì thế, phụ nữ không phải là một thứ có khả năng nhận bí tích này (Scotus, In IV sent. d. 25, Scholion Opus Oxoniense).

Như vậy, chúng ta có thể thấy cách mà mặc cảm tự tôn nam giới dễ dàng tự động chuyển thành mặc cảm tự tôn linh mục. Mặc cảm tự tôn ấy là một sự đối nghịch khủng khiếp với sự thật cốt lõi và khuôn mặt của Đức Kitô Người Tôi Tớ. Chúng ta cũng thấy rõ rằng toàn bộ vấn đề truyền chức linh mục cho phụ nữ không thể được giải quyết thỏa đáng bao lâu chức linh mục Công Giáo – trong lý thuyết và thực hành – vẫn còn được hiểu như một bậc sống ‘chức trọng quyền cao’. Một não trạng trọng nam khinh nữ và nặng tính phân chia cấp bậc như thế cũng đồng thời có chiều hướng loại trừ phụ nữ ra khỏi mọi tiến trình bàn bạc và thảo luận quan trọng trong Giáo Hội (x. Dennis Michael Ferrara, “The Ordination of Women: Tradition and Meaning,” Theological Studies 55 [1994], tr. 706-719).

những điều kiện

cần thiết để chủ tọa

cuộc cử hành Thánh Thể

Đức Kitô đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể như một quà tặng đặc biệt của tình yêu cho Giáo Hội lữ hành mọi nơi và mọi thời. Tôi cho rằng từ sự thật căn bản này, chúng ta dễ dàng rút ra kết luận rằng bất cứ sự đòi hỏi nào trong thực tế tước đoạt khỏi các cộng đoàn Kitôhữu việc cử hành Thánh Thể đều đặn thì đều là những đòi hỏi không có cơ sở, và do đó cần phải được xét lại.

Đây là một sự thật có tầm rất hệ trọng đối với những ai đang nắm giữ quyền bính. Chúng ta hãy đọc lại tuyên bố của Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo:

Việc cử hành Ngày của Chúa và Hy Lễ Tạ Ơn của Ngài vào ngày Chúa Nhật là trung tâm của đời sống Giáo Hội (2177). Thánh Lễ Chúa Nhật là nền móng và là nguồn lực củng cố của mọi thực hành Kitô giáo. Vì vậy tín hữu có bổn phận phải tham dự Thánh Lễ vào những ngày buộc trừ phi được miễn chước vì một lý do hệ trọng. Những ai cố ý bỏ bổn phận này thì mắc tội trọng (2181).

Trong một thần học luân lý nhắm đến không chỉ những người dưới quyền bính mà còn nhắm đến cách đặc biệt những người nắm quyền bính, thì có thể thấy rõ rằng nếu vì quá nhiều điều kiện nhân tạo làm cản trở không cho nhiều cá nhân và cộng đoàn Kitôhữu đều đặn tham dự Hy Lễ Tạ Ơn thì những vị lãnh đạo Giáo Hội đặt ra cac điều kiện đó sẽ “mắc tội trọng” (xem số 2181 trên). Người ta không thể nói rằng bao nhiêu Thánh Lễ họ bị tước đoạt do các qui định nhân tạo như thế thì chính các nhà hữu trách Giáo Hội cũng mắc bấy nhiêu tội đó sao? Để bắt đầu một cuộc thẩm xét xa hơn, thiển nghĩ nên xuất phát từ những cộng đoàn dùng bữa của Giáo Hội Kitô giáo thời sơ khai.

linh mục thợ - 

xin chân thành cám ơn các bạn!

Không nghi ngờ gì nữa, các linh mục thợ xứng đáng được chúng ta tri ân sâu xa. Họ đã và vẫn đang là những nhà tiên phong dũng cảm trong việc thám hiểm các chân trời mới cho một nhận thức đúng đắn hơn về hội nhập văn hóa và về chức linh mục thừa tác. Nói một cách ẩn dụ, bước nhảy của họ là một bước nhảy vĩ đại qua một vực thẳm vừa sâu vừa rộng. Nhiều linh mục và giám mục nổi tiếng về lòng nhiệt thành mục vụ và về sự sáng suốt đã dám đương đầu với vấn đề nóng bỏng là sự lảng xa của tầng lớp lao động bình dân đối với một Giáo Hội không chỉ rề rà đi sau lịch sử mà đồng thời còn rề rà đi sau Tin Mừng của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nữa. Các linh mục này hiểu rằng xì-căng-đan đã nổi lên khi người ta  mất liên lạc với giới lao động, cũng như ngày nay nhiều Kitô hữu sáng suốt đang lo ngại Giáo Hội có thể đánh mất nhiều người trong số các phụ nữ đầy tiềm năng nhất của mình.

Các thông điệp của Giáo Hoàng Lêô XIII và Piô XI về vấn đề xã hội của giai cấp thợ thuyền chắc chắn là những ví dụ về một bước đi đúng hướng; Nhưng chúng không thể lấp đầy cái vực thẳm giữa những thực hành của Giáo Hội và nền văn hóa của giai cấp thợ thuyền. Paul Gauthier, trong tư cách là một trong những linh mục sáng suốt trỗi vượt về mục vụ, đã có đủ dũng cảm và tinh tế để diễn tả điều đó một cách thẳng thắn như sau: “Nước Pháp đã trở thành một xứ truyền giáo.” Tuy nhiên, dù có thiện chí đến mấy đi nữa, các linh mục được sai đến với giới thợ thuyền vẫn mang dấu ấn khác biệt về văn hóa và giai cấp – đó là kiểu thức linh mục theo Triđentinô, được biểu tượng bởi chiếc áo chùng đen. Đa số các linh mục hoàn toàn không thể nhận ra tầm mức của sự khác biệt và sự xa lạ về văn hóa. Ở đây chúng ta không cần phải chứng minh về sự xa lạ của giới thợ thuyền hay của Giáo Hội, vì cả hai đều đã quá sáng tỏ.

Hồng Y Emmanuel Suhard vĩ đại - cùng với các nhà tư vấn và tuyên úy của giới trẻ Công Giáo như Jacques Loew, OP, Henri Godin và Yves Daniel - là những người đã có sáng kiến thực hiện cuốn sách gây xôn xao dư luận: Nước Pháp, Xứ Truyền Giáo? (tác giả của cuốn sách là hai danh tánh sau cùng nêu trên).

Trong thời gian sửa soạn cho Công Đồng, tôi có dịp tiếp xúc và cộng tác với Jacques Loew và Giám Mục A. Ancel, người vẫn đường đường là một linh mục thợ ngay cả khi đã trở thành giám mục. Tất cả những khuôn mặt ấy đều toát ra tinh thần Tin Mừng một cách tuyệt vời, để lại ấn tượng rất sâu sắc cho tôi.

Chắc độc giả sẵn lòng thứ lỗi cho tôi vì tôi hơi lang bang một chút để nhắc lại câu chuyện mà tôi đã nghe từ Giám Mục Ancel; dù sao câu chuyện cũng rất đặc trưng cho vấn đề ở đây. Số là văn kiện Veterum Sapienta, được thông qua bởi các giới chức già nua trong giáo triều, nêu nghị quyết rằng nhân Công Đồng sắp tới, cần phải cố gắng để duy trì “văn hóa Latinh” và, nhằm mục đích ấy, mọi triết học và thần học sẽ mãi mãi cần phải được giảng dạy bằng tiếng Latinh trên khắp thế giới. Sau khi văn kiện ấy được ban hành, Giám Mục Ancel, thay mặt các giám mục Pháp, đã đến gặp giáo hoàng và thẳng thắn bày tỏ sự phản đối. Giáo Hoàng Gioan XXIII không chút ngạc nhiên. Ngài nói: “Thưa Đức Cha, tôi đón nhận sự phản đối này. Và tôi hiểu tại sao. Nhưng hãy cho phép tôi kể một câu chuyện để giải thích vấn đề này:

Giorgio, một nông dân ở miền núi Bergamo, đến gặp giám mục của mình và xin ngài đặt mình làm linh mục, vì suốt mùa đông dài chẳng linh mục nào có thể đi tới thị trấn bé nhỏ ấy, vì thế mọi người ở đó phải sống không có Thánh Lễ. Giorgio nói: “Thưa Đức Cha, con bảo đảm rằng con có thể làm lễ bằng tiếng Latinh nghiêm chỉnh, mặc dù con không hiểu ất giáp gì về thứ tiếng ấy. Nhưng con cũng có thể phỏng đoán ý nghĩa cách đại khái được.” Vị giám mục rất cảm động, nhưng ngài trả lời anh ta: “Rất tiếc, vì anh là người đã kết hôn, tôi không được phép truyền chức linh mục cho anh.”

Một năm sau, Giorgio lại đến gặp giám mục và thưa: “Margaret, người vợ thánh thiện của con, đã được Chúa gọi về, và con không có ý định cưới vợ lần nữa. Vậy, thưa Đức Cha, con có thể lãnh chức linh mục không ạ?” Giorgio trải qua một cuộc khảo hạch ngắn, và anh tỏ ra rất xuất sắc trong việc nắm hiểu các nghi thức. Thế là anh được phong chức linh mục. Làng anh ai nấy đều phấn khởi.

Sau đó, Giorgio có một chuyến về thành phố vài ngày, cử hành Thánh Lễ tại nhà thờ chính tòa. Trong phòng áo, tất cả các linh mục khác đều nói “Prosit!” để chào anh. Giorgio hỏi một cha già xem tiếng chào ấy có nghĩa là gì. Vị linh mục ấy, vốn tính ranh ma, trả lời: “Prosit nghĩa là thằng đểu” . Ngày hôm sau, khi Giorgio lại được chào “Prosit!”, anh nổi khùng lên, đấm thẳng một cú vào mặt kẻ chào mình, và thét lớn: “Ông cũng là một prosit!”

Kể tới đây, Giáo Hoàng Gioan XXIII dừng lại, đăm chiêu, rồi nói với Giám Mục Ancel: “Có lẽ tôi chỉ muốn rằng anh chàng Giorgio ấy cần phải biết từ Latinh Prosit có nghĩa là gì!” Rồi ngài thở dài, thú nhận: “Ôi, tôi hy vọng Chúa sẽ tha thứ cho tôi vì tôi đã nhân nhượng một điều như thế này đối với giáo triều.”

Sự sùng bái tiếng Latinh như vậy không phải là một biểu tượng của sự lảng xa sao? Cũng vào giai đoạn đó, một hồng y tên tuổi khác đã viết trong tờ Osservatore Romano rằng Rôma sẽ mãi mãi có bổn phận phải khai hóa các dân man di bằng “siêu văn hóa” Latinh. Trong cùng hướng suy nghĩ này, Hồng Y Giuseppe Pizzardo, bấy giờ là người đứng đầu thánh bộ của Tòa Thánh, trong một cố gắng trấn áp phong trào các linh mục thợ, đã đưa ra quan điểm như sau: Việc đứng vào hàng ngũ của tầng lớp lao động lệ thuộc xem ra không xứng đáng với địa vị của một linh mục. Thật lạ! Tại sao vị hồng y ấy không nhận ra rằng việc mình khoác vào người bộ áo đỏ tía diêm dúa ấy và việc mình đê mê với những tước hiệu kệch cỡm kia thì hoàn toàn tương phản với Đức Giêsu Người Thợ Mộc?

Năm 1963, năm đầu tiên triều giáo hoàng của ngài, Giáo Hoàng Phao-lô VI nói chuyện với tôi về vấn đề linh mục thợ, ngài bày tỏ với tôi mối cảm thông và quan tâm mục vụ sâu sắc của ngài. Ngài trao cho tôi một tập hồ sơ dày và yêu cầu tôi đúc kết một nhận định về vấn đề đang rất thời sự này. Quyết định của Giáo Hoàng Phao-lô VI về việc tiếp tục cuộc “thử nghiệm” các linh mục thợ đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của Công Đồng qua văn kiện về “Sứ Vụ Và Đời Sống Linh Mục” (đoạn 8).

Bất chấp mọi khốân đốn và hiểu lầm, cơ chế linh mục thợ đã nhận được sự phê chuẩn cuối  cùng – và đây là một dấu hiệu “mở cửa” để đón lấy ngọn gió trong lành. Chúng ta được mở mắt ra để thấy một vấn đề còn rộng lớn hơn – đó là, sự xa cách thăm thẳm được tạo ra bởi nền giáo dục và văn hóa của các linh mục được định hình cách đồng nhất theo kiểu thức chủng viện Triđentinô, nhất là trong sắc thái Rôma, vốn vẫn còn rất phổ biến cho tới Công Đồng Vatican II. Công việc của Giáo Hội xét toàn thể và đặc biệt của các giám mục và linh mục là phải tiếp tục tiến trình hội nhập văn hóa về thần học và sứ vụ, để tôn vinh Đức Giêsu Người Thợ Mộc, Đấng là “Con Người”, là “một người ở giữa chúng ta” và giống chúng ta trong mọi sự chỉ trừ tội lỗi.

Sự hiện diện của các linh mục thợ gần như trên khắp thế giới ngày nay là một dấu hiệu của hy vọng và của sự thách đố còn tiếp tục đặt ra cho toàn thể Giáo Hội - nhằm xích lại gần Đức Giêsu hơn trong chính lịch sử nhân loại ở đây và bây giờ, cũng như trong mọi nền văn hóa. Câu hỏi căn bản của chúng ta là: “Giáo Hội và thế giới đang cần loại linh mục nào?” Chính mối ưu tư này đã cho tôi sự can đảm và động lực để viết quyển sách nhỏ này.

trong hoàn cảnh

bị thách đố về thể lý

Nhìn lại hoàn cảnh hiện nay của mình, tôi không thể không nghĩ rằng mình là một người tàn tật và bị rất nhiều thách đố về thể lý. Vấn đề thanh quản chỉ là một trong rất nhiều khó khăn khác nữa của tôi. Mở rộng tầm nhìn hơn, hướng nhìn đến Đấng Emmanuel, Ngôi Lời Nhập Thể, và đồng thời nhìn đến đà thay đổi nhanh chóng trong lịch sử thời đại chúng ta, chúng ta có thể thành thực nói rằng tất cả chúng ta đang gặp vướng víu và đang bị làm cho tàn phế trong cả hai phương diện, chúng ta vừa chậm chạp không bắt kịp sự gần gũi của Đức Giêsu đối với dân Người vừa trôi tụt lại phía sau trên con đường tốc hành của lịch sử hiện đại.

Các linh mục chúng ta mang sâu trong mình những vết thương không chỉ mới hình thành trong hiện tại. Trên đôi vai yếu ớt của mình, chúng ta còn phải gánh lấy gánh nặng của lịch sử Giáo Hội. Nếu chúng ta cho phép mình nhận thức được các thương tích lớn lao ấy của mình, nếu chúng ta nhận thức được tình trạng lạc hậu và què quặt của mình trong vô số phương diện, thì rất có thể chính những khiếm khuyết của chúng ta sẽ trở nên nẻo đường ẩn tàng cho chúng ta đón nhận dồi dào ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể trở thành dấu chỉ và biểu hiệu của Người Tôi Tớ tang thương của Thiên Chúa. “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quí mến hết lòng” (Is 42,1). “Bao kẻ sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người” (Is 52,14). “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật; người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn” (Is 53,3).

Những suy niệm này của tôi bật ra khi tôi đọc câu chuyện về một vị mục sư Tin Lành bị tàn phế nặng nề nhưng đã hết lòng quảng đại dấn thân phục vụ cho những kẻ tàn tật thuộc mọi loại và mọi mức độ. Thật chẳng hợp tí nào với qui định của giáo luật cũ của chúng ta rằng không được truyền chức linh mục cho những người bị khiếm khuyết thân thể trầm trọng! Toàn bộ tình hình của chúng ta hiện nay có thể được cải thiện rất nhiều nếu Giáo Hội mời gọi các ơn gọi linh mục từ những con người đau khổ này, đặc biệt để phục vụ cho những anh chị em tàn tật. Đời sống của các linh mục tàn tật sẽ là sự nhắc nhở sống động cho chúng ta về Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.

Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức (Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!