.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời Giới Thiệu

Đôi Dòng Về Tác Giả

1. Kinh nghiệm góp nhặt trên đường đời tôi

2. Ánh sáng chói loà của Thánh Kinh

3. Nhận hiểu ý nghĩa và mục đích sâu xa hơn của ơn gọi Linh Mục

4. Chức Linh Mục trong buổi ban đầu

5. Khuôn mặt người Linh Mục qua giòng lịch sử

6. Chức Linh Mục và đời sống chủng viện theo mẫu thức TRIĐENTINÔ

7. Những vấn nạn xung quanh vấn đề độc thân

8. Khuôn mặt Linh Mục thời công đồng và sau công đồng

9. Dự đoán tương lai của ơn gọi Linh Mục

10. Những con vật trên tàu NÔ-E hôm nay

11. Này tôi là nữ tì của Đức Chúa!

lời nguyện đúc kết

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Giáo Hội cần loại Linh Mục nào?
Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức
Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
1. KINH NGHIỆM GÓP NHẶT TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI TÔI

Dù được ý thức hay không, các kinh nghiệm sống của chúng ta sẽ ảnh hưởng trên cách nghĩ  và cách cảm nhận của chúng ta về thực tại. Suy tư về những kinh nghiệm – cả tích cực lẫn tiêu cực - có thể là một công việc đầy bổ ích để hiểu sâu xa hơn cách thức Thiên Chúa hiện diện và hướng dẫn chúng ta trên hành trình đức tin của mình. Mang hoài bão ấy, khi kết thúc 56 năm linh mục của mình, tôi muốn suy tư ở đây về các kinh nghiệm của chính tôi - cũng như về cách mà những kinh nghiệm đó đã giúp tôi khám phá và tiếp tục thăng tiến ơn gọi linh mục của mình.

khám phá ơn gọi của tôi

Đầu tiên, một điều thật chắc chắn: Những kinh nghiệm ấu thời của tôi với cha sở, một con người trung bình về mọi tiêu chuẩn, không gợi ra nơi tôi ý tưởng nào hay niềm khát khao nào muốn bắt chước ngài. Tuy nhiên, vào thời ấy, với chức thánh, vị mục tử được đoàn chiên nhìn nhận như một con người cao cả trỗi vượt, một thứ ông chủ, và là một trong những người được kính trọng nhất trong thị xã, cha sở là con người đưa ra phán quyết cuối cùng về mọi sự – dù phán quyết đó đúng hay sai.

Ngay từ hồi còn bé tẻo teo, tôi đã có một kinh nghiệm hãi hùng về con chó của cha sở. Không biết vì lý do gì, nó ghét cay ghét đắng tôi. Không giống như các thiếu nhi được cha sở đưa vào khuôn khổ răm rắp trong lớp học, con chó dữ tợn ấy được cho phép đi lang thang tùy thích. Không may, con đường từ nhà tôi đến trường phải đi ngang nhà xứ! Những lúc đi một mình, tôi tự võ trang bằng vài cục đá để tự vệ, phòng chống khả năng con chó có thể tấn công bất cứ lúc nào.

Vào một ngày như thế, con chó của cha sở chứng tỏ thế “thượng phong” của nó và tấn công tôi. Nó cắn đúng vào chỗ kín của tôi. Hoảng sợ, tôi chạy về nhà với mẹ, khóc bù lu bù loa suốt con đường. Sau khi săn sóc vết thương cho tôi, mẹ dẫn tôi đến nhà xứ và xin gặp cha sở để ngài tận mắt chứng kiến những gì con chó hung dữ của ngài đã gây ra cho tôi. Người giúp việc của ngài lạnh lùng trả lời: “Con Ki không vô cớ tấn công ai bao giờ!”

Thế đấy! Bạn thử tưởng tượng đi.

Tuy nhiên, tôi rất mừng để nói rằng khi cha sở thấy tôi trong tình trạng thê thảm như vậy, ngài tỏ vẻ cảm thông. Ngài cố an ủi tôi, rồi trao cho mẹ tôi một món tiền để mua cho tôi một cái quần mới. Nhiều năm sau, khi giảng tĩnh tâm cho các linh mục, tôi đã chia sẻ một bài suy niệm với đề tài “Con Chó Của Cha Sở” - dựa vào câu chuyện thời thơ ấu ấy của mình.

Họa vô đơn chí, đó không phải là kinh nghiệm cuối cùng của tôi với con chó kia. Vào giai đoạn đói kém ở Đức thời hậu chiến, tôi là một linh mục trẻ, phờ phạc dấu vết chiến tranh, trở về vùng quê ấy để giúp Mùa Chay. Vừa nhác trông thấy con chó ác ôn ngày trước - bấy giờ đã to mập hơn và hỗn láo hơn! - tôi cảm thấy sôi sục trong lòng. Dù tôi không tỏ ra một dấu hiệu gì ác cảm với nó, con chó vẫn gầm gừ khiêu khích. Rồi sau đó – vào khoảng nửa đêm, khi tôi giải tội về muộn - nó đã ra tay! Số là, trong bóng đêm tối mịt, tôi đứng đợi ở cửa nhà xứ, phía gần với khu vườn chỗ con chó hay đi qua và sủa la inh ỏi; tôi hy vọng sẽ có ai đó nghe tiếng nó và can thiệp. Vì chẳng ai chú ý, tôi đánh liều mở cửa và lập tức bị con chó độp một phát vào cổ. Hoảng hồn, tôi kêu thét lên. Nhưng một lần nữa, tôi hết sức ngạc nhiên và không thể tin vào tai mình khi nghe có tiếng nói vọng ra: “Con Ki không bao giờ vô cớ bắt nạt ai.” Sau này, có nhiều dịp lui tới rất nhiều nhà xứ, tôi ghi nhận rằng mình đã gặp rất nhiều con chó thân thiện, phản ảnh đúng những cha sở thân thiện - giống như con Ki phản ảnh rất đúng chủ của mình.

Kinh nghiệm thực tế đầu tiên của tôi với cha sở quê mình – xét trong tư cách là thầy dạy - đã xảy ra khi tôi tham dự lớp giáo lý của ngài. Là một con người rất nghiêm khắc, ngài thường giận dữ đến độ bất nhẫn, sử dụng đòn roi để kiểm soát và quản lý đám học sinh – không khác mấy với nhiều nhà giáo thời ấy. Đó là một trong những lý do khiến tôi không bao giờ gần gũi ngài, cũng không nhận được ấn tượng gì từ cung cách ngài giảng dạy đức tin Công Giáo.

Năm lên chín tuổi, tôi và các bạn cùng lớp được giúp sửa soạn rước lễ lần đầu, và biến cố này trở thành một kinh nghiệm không vui gì đối với tôi. Để đảm bảo rằng bọn nhóc sẽ xưng tội cách trọn vẹn, cha sở kể câu chuyện kinh khủng sau đây – câu chuyện làm tôi sợ điếng người:

Thầy tu già nọ qua đời một cách rất thánh thiện. Sau bài kinh “Requiem”, vị tu viện trưởng bắt đầu bài điếu văn ca ngợi người quá cố. Bỗng dưng, có một tiếng thét lớn từ trong quan tài:

-“Ngừng! Ngừng! Xin hãy ngừng những lời nói vô nghĩa ấy! Tôi đang ở trong hỏa ngục.”

-“Ủa, sao lạ kỳ thế?”, tu viện trưởng hỏi.

Người chết trả lời: “Dạ, lúc con xưng tội lần đầu, vì xấu hổ, con đã giấu đi một tội!”

Quá run sợ, tôi đã lấy giấy bút, ghi ra một bảng liệt kê dài ngoằng các tội – tội thực và tội tưởng tượng – và bắt đầu xưng thú với hy vọng ‘vuốt giận’ được Thiên Chúa, vị Thiên Chúa mà tôi hình dung là rất khắc nghiệt và sẵn sàng tống cổ tôi xuống hỏa ngục bất cứ lúc nào. Niềm háo hức trước đó của tôi đối với bí tích này chợt tắt ngúm ... cho tới khi một cha giải tội khôn ngoan của một tu viện gần đó đã cứu tôi.

Đối lập lại với kinh nghiệm nói trên, tôi có những ký ức dễ thương về người mẹ rất khôn ngoan của mình. Mỗi buổi tối mùa đông, mẹ đọc cho tôi nghe những đoạn Tân Ước đầy cảm kích, những câu chuyện về cuộc đời các thánh, và nhất là những mẩu chuyện về các nhà truyền giáo được viết phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Thật vậy, bố mẹ tôi đặc biệt quan tâm đến những tin tức về hoạt động truyền giáo ở  nước ngoài. Tình yêu và lòng quan tâm của bố mẹ đối với công cuộc truyền giáo là hạt giống nuôi dưỡng nơi tuổi trẻ của tôi một khát vọng trở thành nhà thừa sai rao giảng Tin Mừng tại Phi Châu hay Á Châu. Đó là niềm cảm hứng pha trộn giữa chất lãng mạn của tuổi trẻ và một nhận thức nghiêm túc về ý nghĩa của việc rao giảng Tin Mừng.

Khi tôi lên mười tuổi, việc chuẩn bị rước lễ lần đầu đã được cha sở làm một cách khá hơn. Sau mẹ tôi, chính chị Constantine là người đã giúp tôi nhiều nhất. Mẹ tôi ủy thác tôi cho sự ân cần hướng dẫn của chị Constantine – và vào hôm Rước Lễ lần đầu, tôi cảm thấy rất tự tin để nói với chị: “Em muốn trở thành một vị thánh.” Không chút tham vọng nào, nhưng vốn có tấm lòng và sự khôn ngoan của một giảng viên giáo lý đích thực, chị tôi đã trả lời một cách đơn sơ: “Nên lắm chứ!” Theo cách nghĩ của tôi, tôi thấy chị Constantine vượt xa cha sở nhiều năm ánh sáng về việc rao giảng cho tôi Tin Mừng ơn cứu độ. Và rõ ràng, chị đã bước đi trên con đường của Đức Kitô; rồi ở tuổi 51, chị qua đời một cách thánh thiện trong tư cách là một nữ tu Phan Sinh.

Gần 12 tuổi, có lần trong một khoảnh khắc lắng đọng, tôi sà lại chỗ mẹ tôi và hỏi: “Mẹ ơi, mẹ nghĩ gì nếu con trở thành một nhà truyền giáo – dù con biết mình phải cố gắng rất nhiều để đạt được điều đó?” Âu yếm nhìn tôi, mẹ khích lệ: “Bernard con, không có vị thánh nào từ trên trời rơi xuống cả. Điều mà những người khác làm được thì – với sự trợ giúp của ơn Chúa - con cũng sẽ làm được.” Kể từ giây phút đó, tôi quyết tâm hiện thực hóa giấc mơ thừa sai của mình. Tuy vậy, ở lứa tuổi đó, ý niệm làm ‘linh mục ‘ còn quá xa vời đối với tôi. Hình ảnh linh mục bằng xương bằng thịt của cha sở địa phương đã không hấp dẫn tôi chút nào, nhưng ý niệm về một nhà thừa sai rao giảng Tin Mừng thì ngập tràn trong đầu óc non trẻ của tôi, với bao hình dung tuyệt vời. Đằng sau niềm hy vọng ấy, dấu hỏi căn bản vẫn còn nguyên đó với tôi: “Trở thành một vị thánh! Tại sao không?”

Ít lâu sau, niềm hy vọng truyền giáo của tôi được củng cố mãnh liệt bởi các cha Dòng Chúa Cứu Thế khi các ngài đến giảng tuần đại phúc tại giáo xứ. Tôi có ấn tượng đặc biệt với Cha Leonard Eckl, người về sau đã trở thành một nhà truyền giáo và được bầu làm Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế ở Brazil. Ngài có đặc sủng đặc biệt về việc khơi gợi và nâng đỡ các ơn gọi trong thanh thiếu niên. Các câu chuyện của ngài về những chuyến đi truyền giáo trên lưng ngựa để cử hành các bí tích và rao giảng về một Thiên Chúa tình yêu tại một số vùng của đất nước ấy đã thu hút sự chú ý của tôi cách mãnh liệt và đã củng cố nhiệt tâm nơi tôi.

Nhiều năm sau, khi sắp hoàn thành học trình tú tài, tôi đã manh nha nghĩ đến việc trở thành một nhà truyền giáo Dòng Tên. Số là, tôi rất ngưỡng mộ nhiệt huyết truyền giáo của các vị ấy: trở thành mọi sự cho mọi người tại các vùng đất Aù Châu. Tìm hiểu chương trình huấn luyện của dòng này, tôi được biết rằng sau giai đoạn tập, có hai hướng được mở ra: các sinh viên có năng lực được khuyến khích trở thành giáo sư, còn những sinh viên trung bình thì được mời gọi đi truyền giáo. Biết được điều này, niềm thích thú của tôi đối với Dòng Tên chợt tan biến – vì tôi muốn (song đã không đạt được) sự bảo đảm rằng mình sẽ trở thành một nhà truyền giáo chứ không phải là một giáo sư.

Bỏ cuộc với Dòng Tên, tôi tìm đến tham vấn vị Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế và dọ ý xem ngài có thể bảo trợ cho tôi trở thành một nhà truyền giáo hay không. Hết sức nghiêm túc, ngài nói rằng ngài có thể cung cấp cho tôi 90 phần trăm cơ hội để tôi hiện thực hóa giấc mơ của mình. Với đầy lòng xác tín, tôi gia nhập và hoàn thành giai đoạn tập của mình, rồi không lâu sau đó tôi được chỉ thị học tiếng Bồ Đào Nha và nghiên cứu văn hóa Brazil. Cho tới lúc được truyền chức linh mục, tôi đã được chuẩn bị sẵn sàng để sống cuộc đời thừa sai và tôi hân hoan xác tín rằng đó là con đường cụ thể để tôi sống đời linh mục của mình.  

thánh lễ mở tay


Cùng với John Flad – là bạn và là anh họ của tôi - tôi thụ phong linh mục vào tháng 5, 1939. Còn nhớ, hồi tôi bắt đầu học thần học, mẹ của John (cũng là vú đỡ đầu của tôi) nói với anh ta: “Nếu Bernard, bạn con, dám học thần học, tại sao con không dám hở?” Ở đây có thể nói thêm rằng tôi vốn luôn được coi là kẻ dám liều hơn John; chắc hẳn cũng vì vậy mà tôi không được kể là một anh chàng ngoan ngoãn lắm. Điều thú vị là khá lâu trước những cải cách của Công Đồng Vatican II, John và tôi đã hăng hái bênh vực cho việc canh tân phụng vụ. Vì thế, xét rằng cả hai cùng đồng hành với nhau trong suốt những năm chủng viện, chúng tôi không thể hình dung mình không được phép dâng thánh lễ mở tay đồng tế với nhau. Tuy nhiên, không phải là những kẻ phản loạn, chúng tôi chỉ phê phán các qui định đó một cách ôn hòa mà thôi. Thật tiếc, mỗi chúng tôi phải làm lễ riêng, người này sau người khác, tại giáo xứ nhà quê của mình.

Hôm ấy trời trút mưa tầm tã, chúng tôi tự hỏi đó là điềm gì vậy. Vì John và tôi đều là những con người lạc quan, nên chúng tôi giải thích rằng cơn mưa ấy là một dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa tuôn tràn trên chúng tôi - để chúng tôi có thể trổ sinh dồi dào hoa trái.

Ít lâu sau, lúc tôi chuẩn bị mua vé tàu đi Brazil, Bề Trên Giám Tỉnh bất ngờ gõ cửa phòng tôi – và tôi hết sức ngạc nhiên về vinh dự này. Đây chính là vị giám tỉnh sáu năm trước đã bảo rằng tôi không cần phải sợ trở thành một giáo sư – và ngài cũng là người thầy đã hướng dẫn tôi học tiếng Bồ Đào Nha và nghiên cứu văn hóa Brazil sau khi tôi khấn lần đầu. Té ra, cơn mưa hồng phúc dịp tôi thụ phong linh mục trở thành một gáo nước lạnh dội lên đầu tôi, khi tôi nghe vị giám tỉnh chậm rãi nhấn từng tiếng: “Khi các giáo sư của anh nghe biết anh được chỉ định đi Brazil, họ tỏ ra rất bức xúc với tôi. Họ muốn anh tiếp tục học để lấy học vị tiến sĩ thần học luân lý.” Giật mình, tôi trả lời: “Thưa Bề Trên, một yêu cầu như thế chỉ có thể là sự chọn lựa cuối cùng của con thôi.” Tôi cũng thẳng thắn trình bày thêm rằng tôi không ‘kỵ’ gì hơn việc phải học đào sâu loại thần học luân lý mà mình đã được dạy cho trong chương trình đào tạo. Giám Tỉnh lập tức trả lời: “Vì thế, chúng tôi muốn có sự thay đổi. Vả lại, anh không phải đi học ở Rôma đâu! Anh có thể chọn giữa Tubingen và Munich.”

Dù rất trân trọng sự tín nhiệm lớn lao mà các giáo sư dành cho khả năng trí thức của mình, tôi vẫn rất thất vọng vì các mơ ước và dự định của mình xem như đã hoàn toàn sụp đổ. Chỉ sau này khá lâu tôi mới nhận ra rằng lúc đó bề trên đã trao cho mình một sứ mạng thật quan trọng: tôi phải cố gắng hết sức mình để làm cho việc giảng dạy thần học luân lý thực sự trở thành một phần cốt yếu trong công cuộc rao giảng cho mọi người Tin Mừng về quyền năng và sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa. Vả chăng, lúc đó tôi không thể nào thấy trước rằng việc học và những kinh nghiệm của mình sau này trong chiến tranh sẽ giúp tôi có nhiều cơ hội để thực sự trở thành một nhà truyền giáo như mình vẫn ước mơ.

trong ngành y tế


Được phép chọn lựa, tôi đã chọn học ở Đại Học Munich dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Theodore Steinbuckel; đây chính là một nhà tiên phong trong công cuộc canh tân thần học luân lý. Đề tài tôi được giao để làm luận văn tiến sĩ là: “Thánh và Thiện - hay mối Quan Hệ giữa Tôn Giáo và Luân Lý.” Tuy nhiên, chưa kịp bắt tay vào luận văn này thì tôi đã trở thành một trong những linh mục đầu tiên được gọi nhập ngũ vào quân đội Đức. Theo qui định của Bản Thỏa Ước giữa nhà nước với Rôma, các linh mục có thể được gọi nhập ngũ nhưng chỉ để phục vụ trong tư cách là những nhân viên y tế mà thôi. Đơn vị huấn luyện mà tôi được bố trí vào hầu như gồm toàn là các linh mục, bác sĩ và sinh viên y khoa. Tất cả chúng tôi sống với nhau trong bầu khí ấm tình huynh đệ – và tất cả đều chia sẻ nỗi căm ghét đối với cuộc chiến tranh phi nghĩa này.

Có một anh hạ sĩ nọ trong đơn vị tôi, tính tình rất chất phác, nhưng đồng thời cũng có nhiều mặc cảm tự tôn. Lần nọ, anh ta ra lệnh cho một linh mục phải vừa chạy dọc suốt chiều dài sân vừa la lớn: “Tôi là một thằng ngốc!” Chấp hành mệnh lệnh, anh linh mục ấy cắm cổ chạy và lém lỉnh la thật to: “Thưa hạ sĩ! Đúng, đúng! Hạ sĩ là một thằng ngốc!” Sự táo bạo ấy của anh bạn linh mục đã đem lại cho chúng tôi một trận cười nghiêng ngả – và nó cũng giúp đào sâu tình đồng đội của chúng tôi. Hơn nữa, câu chuyện ấy cũng cho thấy rằng các linh mục không ngu đần cũng không nhát đảm. Họ cũng không hề nghèo khiếu hài hước!

Là lính cứu thương, chúng tôi được qui định không bao giờ được phép làm bất cứ gì thuộc sứ vụ linh mục, trong bất luận trường hợp nào. Ai vi phạm điều lệnh ấy có thể phải nhận hình phạt tới chín năm tù. Tôi tự nhủ mình sẽ vi phạm điều lệnh ấy bất cứ khi nào có dịp cho mình vi phạm – tôi vốn đã chẳng từng mang tiếng là một anh chàng ‘bướng bỉnh’ đó sao! Trong cuộc chiến tranh kéo dài với Nga, tôi phục vụ trong bộ binh với tư cách là một trung sĩ cứu thương. Rất nhiều trường hợp, tôi mang về tuyến sau những người lính bị thương ở mặt trận, và tôi luôn luôn sẵn sàng phục vụ cho bất cứ ai cần đến sự săn sóc y tế. Qua thái độ sẵn sàng ấy của tôi, người ta nhận thấy rằng tôi thực sự là “một người trong họ” – và cũng nhờ đó, tôi nhận được sự tín nhiệm của họ ngày càng hơn.

Đàng khác, cũng có nhiều người quá khích luôn luôn tỏ thái độ khinh miệt các linh mục. Một hôm, một đại úy đã lăng nhục tôi trước mặt nhiều người lính. Tôi điềm tĩnh nói với anh ta: “Nếu một ngày nào đó anh cần sự giúp đỡ, tôi sẽ sẵn sàng. Xin anh đừng quên nhé!” Vài tuần sau, chuyện xảy ra là tôi mang chính viên đại úy ấy từ mặt trận về tuyến sau trong một cuộc tải thương ‘thập tử nhất sinh’ cho chính bản thân tôi – tôi chăm sóc vết thương cho anh ta một cách tận tình. Nước mắt ràn rụa, viên đại úy xin tôi tha thứ về sự xúc phạm của anh đối với tôi. Kinh nghiệm này đã giúp tôi thấy rõ hơn ý nghĩa của mấy tiếng “một người trong chúng ta”, một ý nghĩa được đào sâu thấm thía trong suốt cuộc chiến tranh ấy.

Đức Kitô, Con Người, là “một người trong chúng ta” cho hết mọi người không trừ ai. Cũng vậy, với tất cả niềm xác tín của mình, tôi đã chọn lựa vượt qua mọi biên giới quốc gia. Mùa đông 1940-41, đơn vị tôi đóng quân ở Normandy, nơi mà ban đầu rất nhiều gia đình Pháp và các linh mục địa phương đã coi tôi như một người bạn của họ. Bất chấp luật cấm của chế độ Đức Quốc xã, Chúa Nhật nào tôi cũng cử hành Thánh Lễ trọng thể trong Nhà Thờ Chính Tòa Bayeux, cho các quân nhân của chúng tôi và cho cả dân chúng địa phương của vùng đó. Vốn bị đói khát về tâm linh do hoàn cảnh chiến tranh, người ta đến tham dự thánh lễ mỗi tuần mỗi đông hơn. Chắc hẳn nhiều người trong họ không thể lường hết được sự liều lĩnh của tôi khi thi hành sứ vụ của mình như thế!

Một ngày Chúa Nhật, tôi cưỡi xe đạp vào thị xã và, trên đường, tôi gặp viên sĩ quan chỉ huy ở Bayeux, ông gọi tôi lại. Tôi bồn chồn tự hỏi có phải ông ta muốn hạch tội mình về sự vi phạm của mình không. Và tôi sung sướng thở phào khi ông nồng nhiệt chào tôi và nói rằng ông cũng sẽ giúp tôi trong chuyện làm lễ ấy. Thêm nữa, ông còn ngỏ ý gửi đội quân nhạc tới để giúp cho Thánh Lễ thêm phần long trọng. Thế là từ đó ông cho người đưa tôi đến Nhà Thờ Chính Tòa bằng xe hơi! Rõ ràng, do nhận hiểu sự bất công của luật, viên chỉ huy này đã thể hiện một tinh thần cương trực và can đảm khi dám gạt luật qua một bên – ví ích lợi của mọi người.

Trong những tháng tiếp theo sau, các đường ranh giáo phái sụp đổ rất ngoạn mục. Một hôm, một nhóm quân nhân Tin Lành đến gặp tôi và ngỏ ý xin tôi tổ chức một buổi tối học hỏi Thánh Kinh với họ. Suốt thời gian ở đơn vị này, tôi đã gặp họ đều đặn và tình thân của chúng tôi ngày càng được đào sâu. Vào thời gian trước khi bùng nổ cuộc chiến tranh với Nga, tôi đảm nhận việc cử hành Thánh Thể và giải tội chung cho các quân nhân thuộc các Giáo Hội khác nhau, và đa số trong họ đã tham dự. Trong tình hình khẩn trương lúc ấy, và với cảm nghiệm sâu sắc rằng tất cả chúng tôi là một trong Đức Giêsu Kitô, tôi nhận thấy quả là điều hết sức kỳ quái và tởm gớm việc kiên quyết duy trì sự phân biệt giữa người Tin Lành và người Công Giáo. Mọi người chúng tôi, bất kể thuộc niềm tin nào, đều cảm thấy được mời gọi chia sẻ trong mối hiệp thông. Vào một dịp khác, tôi nói với các người bạn Tin Lành của tôi rằng vị mục tử chính thức của họ chắc chắn sẽ đến để săn sóc họ, nhưng câu trả lời của họ là: “Thưa cha, thực sự chẳng có lý do nào để tạo ra bất cứ sự thay đổi nào cho chúng tôi cả, vì cha là ‘một người trong chúng tôi!’” Vâng, trở thành một người giữa những người khác – đó là một niềm vui và là đặc ân lớn lao hơn bất cứ cảm nghiệm nào khác mà tôi có được trong thời chiến, và tôi đã có nhiều dịp để kinh nghiệm lại điều này.

Tôi đã có những cơ hội tuyệt vời để cung ứng sự trợ giúp – cả về y tế lẫn về tâm linh - cho nhiều anh em Chính Thống Nga cũng như  Ucraina. Chúng tôi đã cùng nhau chia sẻ một cảm nghiệm đầy cảm kích qua một nghi lễ rửa tội cho một nhóm đông đảo các thiếu nhi và thiếu niên. Ít lâu sau đó, khi tôi nói với một số phụ nữ rằng tôi sẽ đến dâng Thánh Lễ vào Chúa Nhật tuần tới - tin tức này đã lan ra rất nhanh, và rất nhiều người, khao khát niềm vui của bí tích này, đã đến tham dự.

Gần cuối cuộc chiến bi thảm ấy, tôi là một tù nhân chiến tranh, được giam giữ tại một căn cứ ở Ba-lan. Giáo dân của một giáo xứ Ba-lan gần đó – mà tôi đã từng săn sóc  cho một số bệnh nhân trong họ và rửa tội cho các em bé của họ – đã quyết định cứu tôi và vận động để tôi trở thành cha sở của họ. Một lần nữa, tôi cảm nghiệm được ý nghĩa thâm sâu thế nào là “một người trong chúng ta”. Đó là một biến cố giúp tôi thực sự nhìn thấy - bằng con mắt đức tin – ánh sáng của Đức Kitô, Đấng nhìn nhận chính Ngài là “Con Người”, là “một người trong chúng ta”.

“Chúa Có Thể Gửi

Một Linh Mục Đến Với Tôi Sao?”  

Vào một trong những ngày khốc liệt nhất ở mặt trận Nga, tôi hoàn toàn kiệt sức do phải làm việc với quá nhiều quân nhân bị thương và tử trận. Hy vọng tranh thủ được một chút nghỉ ngơi để hồi sức, tôi bắt đầu đào một hố cá nhân ngay trong tầm quan sát của ‘đối phương’. Vừa khi bắt đầu đào, tôi nghe một tiếng rên ở gần đó: “Cứu thương, cứu tôi với!” Xét theo tự nhiên con người và xét trong bối cảnh nhà binh, lúc ấy tôi có thể cho phép mình làm ngơ. Thứ nhất, vì tôi cảm thấy mình hoàn toàn kiệt sức; và thứ hai, con người đang kêu rên kia không phải là người của đơn vị tôi, không phải là “một người trong chúng tôi”. Tuy nhiên, bất chợt tôi nhận thấy rõ rằng anh ta là “một người trong chúng tôi”, một người – như mọi người chúng ta – đang cần tôi trong tư cách là một linh mục. Tôi tập trung hết sức lực còn lại của mình, bò ra kiếm người lính ấy. Mười phút sau, tôi tìm thấy anh ta giữa khoảng đồng trống, ngay trong tầm nhìn của lính Nga. Giờ đây nhớ lại, tôi vẫn còn ngạc nhiên không biết tại sao hôm ấy phía Nga đã không bắn tôi. Có lẽ họ nhận ra tôi là một lính cứu thương, và vì họ tôn trọng luật quốc tế nên tha mạng cho tôi. Đối với tôi, không bao giờ có chuyện phân biệt đối xử bên ta bên địch. Người linh mục không biết đến các vành đai phân cách; và người nhân viên cứu thương - do đặc tính công việc của mình - là người phục vụ kẻ khác không cần biết kẻ đó là ai.


Khi tôi tới chỗ người lính bị thương, tôi cố gắng giúp anh ta nhưng lập tức nhận ra rằng mình không thể làm gì để cứu sống anh ta được. Trong tâm trạng ân hận, tôi nói với anh: “Là một nhân viên cứu thương, tôi đã đến quá trễ, nhưng trong tư cách là một linh mục, tôi đang có mặt ở đây kịp thời cho anh.” Đôi mắt mở rộng với ánh nhìn ngạc nhiên, người lính hỏi: “Chúa có thể gửi một linh mục đến với một tội nhân như  tôi sao?” Anh càng sửng sốt hơn nữa khi tôi cho biết rằng tôi có đem theo Mình Thánh Chúa cho anh làm của ăn đàng.[1] Về sau, khi tôi báo tin cho gia đình người lính ấy về cái chết của anh, một linh mục – là anh em họ của người quá cố – đã cho biết: “Thật là một phép lạ! Anh ấy đã bỏ không lui tới nhà thờ kể từ khi xảy ra một vụ trong đó anh bị cha sở cư xử bất công một cách thậm tệ. Anh ấy đã không bao giờ trở lại – dù mẹ anh ấy vẫn không ngừng cầu nguyện đêm ngày cho anh được ơn trở lại.”

Một linh mục, nếu không phải là người cho người khác, thì linh mục ấy đang đi ngược lại ơn gọi của mình. Chỉ khi nào linh mục đáp ứng cho nhu cầu của con người trong bất cứ hoàn cảnh nào mình được mời gọi đáp ứng, thì linh mục mới khám phá ra căn tính đích thực của mình nơi Đức Kitô, Đấng là “Con Người”, Đấng mãi mãi là “một người trong chúng ta.”

Riêng cá nhân tôi, thật là phấn khởi được nghe những người Nga, Ucraina, Ba-lan nói: “Cha Haring là ‘một người trong chúng tôi.’” Đành rằng nói cho cùng, đó không phải là cái gì phi thường lắm, song đó là một xác nhận quan trọng về căn tính của tôi – và là một thách đố tôi tiếp tục đào sâu và phát triển căn tính linh mục của mình suốt cuộc đời mình.

giữa đám dân tị nạn


Ít lâu sau chiến tranh, niềm hy vọng thừa sai của tôi được hiện thực hóa giữa những nạn nhân chiến tranh. Tôi và vài linh mục đồng sự trải qua một số năm rao giảng Tin Mừng cho những người tị nạn Công Giáo không nhà cửa ở Đức – họ sống trong những vùng, mà cho tới thời ấy, là những vùng riêng của Tin Lành. Không có một tổ chức giáo xứ hay cộng đoàn Công Giáo nào tồn tại ở đấy. Suốt thời gian đó, mỗi năm tôi bỏ ra khoảng mười tuần để viếng thăm các vùng nói trên với ba linh mục khác – nhưng mỗi người chúng tôi phụ trách các thị trấn hay các làng riêng.
Ban đầu, chúng tôi thăm từng gia đình trong một khu vực nào đó - và đôi khi vị mục sư Tin Lành cho chúng tôi mượn nhà thờ để qui tụ và cử hành phụng tự. Tuy nhiên, đa số các trường hợp, chúng tôi thuê một vũ trường hay một căn phòng rộng để làm địa điểm qui tụ. Việc ăn uống ngủ nghỉ của chúng tôi do chính những người dân tị nạn này sắp xếp.

Tại một thị trấn nhỏ, không có người tị nạn Công Giáo nào mời tôi ngủ lại trong nhà họ, vì thế tôi đi tới một phòng trọ của một người Tin Lành. Chủ nhân cung cấp cho tôi một chỗ vốn thường dành cho những người ăn xin lang thang. Tôi không ngạc nhiên khi nhận thấy các tấm trải giường lâu rồi chưa được thay. Vì những người ăn xin không có tiền để chi trả, nên chủ phòng trọ không buồn nghĩ đến chuyện săn sóc giường chiếu cho họ. Khi gia đình của một giáo viên Tin Lành phát hiện ra tôi đang ở đấy, họ thay tấm trải giường cho tôi, mời tôi đi ăn tối, và thậm chí báo cho các người tị nạn Công Giáo biết về tình trạng chỗ ở của tôi. Nhờ biến cố đó, tôi đã nhận được sự trợ giúp đáng kể của những người tị nạn nhiệt tình liên đới với tôi.

Trước khi tôi nhận sứ vụ đặc biệt này, với lòng hăng hái của một linh mục, tôi đã chuẩn bị mười sáu bài giảng về các chủ đề chính của Kitô giáo, nhưng tôi đã không bao giờ dùng đến bất cứ bài nào trong số đó! Sống gần gũi người nghèo, tôi sớm hiểu ra rằng cách tốt nhất để rao giảng Lời Chúa cho họ là tiên vàn phải biết lắng nghe những ưu tư, hy vọng và niềm vui của họ.

Chính trong những năm đầy khó khăn thử thách ấy mà tôi đã bắt đầu viết ra các tư tưởng của mình, kết đọng lại trong tác phẩm ba tập Luật của Đức Kitô. Nếu không có những kinh nghiệm chia sẻ cuộc sống với bao người nghèo khổ và túng thiếu thời chiến tranh và sau chiến tranh như thế, thì bản văn kia của tôi rất có thể đã khác đi rất nhiều.

Quả thật, quãng thời gian đó đã giúp tôi nhận hiểu hơn rất nhiều về con người và sứ vụ của Đức Giêsu, Đấng đã đi khắp các thị trấn và làng mạc Galilê rao giảng Tin Mừng cho người nghèo và là Đấng không bao giờ biết mình sẽ tựa đầu vào đâu. Việc săn sóc và rao giảng Tin Mừng cho các quân nhân và những người tị nạn đã trở thành một kinh nghiệm căn bản cho tôi. Mười tám quốc gia Phi Châu mà tôi đã phục vụ (một cách không liên tục) trong quãng thời gian hai mươi năm sau Công Đồng Vatican II đã định hình nhãn quan, các ý tưởng và các phương thức thi hành sứ vụ của tôi trong Thế Giới Thứ Ba, và cũng đã hiện thực hóa những niềm hy vọng truyền giáo trước đây của tôi gấp trăm lần.

Những kinh nghiệm vừa có sức thay đổi đời sống vừa có tính thách đố sâu xa này đã cho phép tôi nhận thức những vấn đề nền tảng mà tôi nghĩ rằng rất có thể mình không bao giờ thực sự nhận hiểu nếu như mình không sống giữa người nghèo. Những kinh nghiệm ấy cũng giúp đào sâu nhận thức của mình về vai trò của người linh mục xét như là môn đệ Đức Kitô. Quả thật, làm sao chúng ta có thể thực sự chia sẻ sứ điệp Tin Mừng với những người cùng khổ nếu chúng ta không sẵn sàng đảm nhận thân phận nghèo của họ? Biết về cái nghèo và sống cái nghèo, hai điều ấy hoàn toàn khác nhau. Trở thành môn đệ của Con Người, điều đó đòi hỏi chúng ta phải suy niệm hằng ngày - ở đây, bây giờ, và trong bối cảnh cuộc sống cụ thể - về ý nghĩa của tiếng gọi trở thành “một người trong chúng ta”. Tất cả điều này sẽ trực tiếp cho thấy chúng ta có thực sự “biết Đức Kitô” hay không. Vâng, chúng ta chỉ “biết” Đức Giêsu Kitô thông qua việc dấn thân giúp đỡ những người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị bóc lột và bất cứ ai cần chúng ta giúp đỡ.

đánh thức ơn gọi

Tìm cách đánh thức và nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo giữa những người tị nạn, đó là một trong những mục tiêu sứ vụ thiết thực nhất của chúng tôi. Việc hiện thực hóa những mục tiêu đó đã nhắc tôi nhớ đến Thánh Phaolô và các bạn đường của ngài – các ngài không bao giờ rời một nơi bao lâu các ngài chưa phát hiện và đào tạo được những con người có khả năng thiết lập và phát triển cộng đoàn tín hữu, những người sẽ tiếp tục công việc của các ngài. Tại mỗi nơi, chúng tôi có thể nhận ra những người nam cũng như nữ sẵn sàng đồng hành với chúng tôi và - khi cần – giới thiệu chúng tôi cho các gia đình.

Kinh nghiệm đầu tiên của tôi trong việc tuyển chọn những người giáo dân có tiềm năng cho sứ vụ này là trong một vùng Tin Lành đôi khi có bầu khí căng thẳng – nơi mà những người tị nạn sống tạm bợ. Ở đó tôi đã may mắn có hai phụ nữ cao niên thánh thiện và một phụ nữ 22 tuổi tên là Matje. Trong khi hai phụ nữ cao niên kia tỏ ra hết sức nhiệt thành, thì tôi cũng nhận thấy rằng họ cần điều chỉnh một đều gì đó. Số là hai phụ nữ này khư khư yêu cầu tôi đừng viếng thăm một gia đình Công Giáo nọ mà họ cho là quá bê bối. Mỗi lần họ nêu chuyện này ra, tôi hết sức kiên nhẫn và ân cần giải thích cho họ rằng tiêu điểm của sứ mạng Đức Giêsu là tìm kiếm chính những loại người đặc biệt ấy. Đến cuối tuần, cả hai bị sửng sốt vì những gì đã xảy ra. Họ nói: “Tất cả những người mà chúng tôi xem là vô vọng đã bắt đầu tham gia sinh hoạt phụng tự đầy đủ và đã trở nên những con người hoàn toàn mới.”

Matje, một phụ nữ rất không bình thường, là thành viên duy nhất trong gia đình quan tâm đến đức tin Công Giáo. Hoàn toàn cởi mở đón nhận đức Kitô, cô đã lắng nghe và nội tâm hóa Lời Chúa. Ít lâu sau đó, cô tiết lộ cho tôi một điều cô đã hứa với Chúa: “Nếu con có thể thuyết phục gia đình con trở lại với Giáo Hội, con nguyện sẽ trở thành một nhà truyền giáo.”  Và cô ta đã thành công một cách kỳ diệu về cả hai phương diện ấy. Cô đã không chỉ đưa mẹ và em gái mình trở lại trong dịp tôi đến vùng đó lần đầu tiên, mà cô còn đưa cả bố và anh trai cô trở lại khi tôi đến đó lần thứ ba. Rồi ít lâu sau, cô trở thành một nhà thừa sai Benedictine rất đắc lực ở Tanzania. Nhiều năm sau, khi cả hai chúng tôi bị bệnh ung thư, chúng tôi gặp lại nhau ở Đức. Bất chấp tình trạng bệnh hoạn của mình  (cô đã chết vì chứng bệnh này ít lâu sau khi cô thăm tôi), niềm vui rạng rỡ của cô không bao giờ tắt. Đó quả là một tông đồ tuyệt vời.

Tại thị trấn kế bên, một người tị nạn và cũng là một giáo viên gốc ở Silesia - là người giúp đỡ tôi rất đắc lực - cũng đề cập đến những “trường hợp vô vọng” mà anh ta nghĩ là mọi nỗ lực đều vô ích. Thật cực kỳ khó để thuyết phục anh chấp nhận quan điểm mà tôi thường xuyên nhắc đến, đó là Đức Giêsu không bao giờ có thái độ kỳ thị đối với bất cứ ai. Khi chuyến viếng thăm của tôi kết thúc, anh kể cho tôi về trường hợp một phụ nữ Công Giáo - là mẹ của sáu đứa con - đã trở thành xì căng đan trong thị trấn. Phụ nữ này liên can đến hoạt động mại dâm với các quân nhân Mỹ. Kể xong câu chuyện, anh thốt lên: “Là một bậc vị vọng, cha không thể bước chân vào nhà của con mụ ấy!” Để nhắc anh nhớ rằng điều quan trọng là phải thực thi sứ mạng của Đức Giêsu, tôi trả lời: “Vì cả anh và tôi đều là những ‘bậc vị vọng’, chúng ta có thể cùng nhau viếng thăm chị ấy.” Khi chúng tôi bước vào nhà người đàn bà nói trên, chị đang có mặt với một phụ nữ khác cũng liên can đến mại dâm. Bực bội vì sự hiện diện của chúng tôi, chị phun ra xối xả những lời thô tục mà cả đời mình cho tới lúc đó tôi chưa bao giờ nghe. Anh bạn của tôi nói: “Đấy! Con đã không cảnh báo trước với cha rồi đó sao?” Tôi trả lời: “Có lẽ chúng ta đáng nhận những lời chửi bới của chị ấy, vì trong thâm tâm mình chúng ta đã xem thường chị ấy!” Chiều hôm đó, người phụ nữ kia trố mắt ngạc nhiên thấy tôi ghé thăm chị lần nữa – lúc này chị đang một mình với các con của chị - và tôi đã tỏ ra thân thiện với chị như thể chưa có chuyện gì xảy ra cả. Sau một cuộc chuyện gẫu ngắn, chị hứa sẽ đến tham dự việc cử hành phụng tự của chúng tôi hai lần, vì tôi đã đến thăm chị hai lần. Cuối cùng chị đã vượt xa khỏi sự ‘mặc cả’ ban đầu của mình để đi bộ năm dặm với những đứa con lớn của chị, đến tham dự với chúng tôi vào mọi buổi tối.

Một năm sau, khi tôi trở lại, người đàn ông giáo viên đã trở thành bạn và mạnh thường quân rất đắc lực của tôi ấy đã nói: “Cha thật có lý. Chị ấy đã trở thành một con người mới và các con cái chị ấy cũng đã thay đổi rất nhiều.” Đây quả là tin mừng lớn lao. Trước hết, người mẹ goá bụa này vốn bị khinh miệt do bởi ngôn từ thô tục của chị – thì ra, (thật trái ngược với điều chúng tôi nghĩ ban đầu) việc chị sử dụng ngôn từ đó không phải vì chị phản kháng chúng tôi nhưng đúng hơn bởi vì chị bị thất đoạt[1] nghiêm trọng. Thứ hai, nhiều người tốt đã giúp đỡ chị thoát ra khỏi tình cảnh khốn nạn và bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Và cuối cùng nhưng không kém quan trọng, người giáo viên mạnh thường quân của tôi nói trên đã trải qua một cuộc hoán cải trong tâm hồn, anh nhận hiểu từ kinh nghiệm này rằng – giống như Đức Giêsu – ơn gọi cốt yếu của anh là ưu tiên phục vụ cho những người bị xem là tội lỗi, những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Thật vậy, hoạt động truyền giáo là một nỗ lực ‘gây nhiễm’ trong đó nếu chúng ta muốn thể hiện sức mạnh yêu thương và cứu độ của Đức Kitô thì chúng ta không thể không nhúng tay chân mình vào sình lầy khốn nạn của con người. Hiện diện giữa những người cùng khổ nhất để phục vụ họ, đó là một con đường rất quan trọng để khám phá, đánh thức và nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo giữa những người nghèo cũng như giữa bao người khác nữa xung quanh.

Một đàng, theo cách hoạt động tông đồ của Giáo Hội sơ khai, chúng tôi đã cố gắng xây dựng những cộng đoàn đức tin mọi nơi mà chúng tôi tới. Nhưng đàng khác, trong khi các Kitô hữu đầu tiên không bao giờ rời một cộng đoàn nhỏ nào nếu cộng đoàn ấy chưa được cung cấp một thừa tác viên Thánh Thể, thì trái lại chúng tôi – do một truyền thống nào đó và do những qui định khắt khe của giáo luật – đã để tất cả những cộng đoàn ấy lại phía sau lưng mình trong tình trạng không có linh mục! Dù sao, đáng ghi nhận rằng ngay cả dù không có thánh lễ, ít nhất nhiệt tâm truyền giáo cũng đã phát triển tại những khu vực bần cùng ấy. Thực tế Chúa cũng ban cho tôi khả năng cổ võ các ơn gọi linh mục và tu sĩ suốt trong thời gian đó, song rõ ràng đấy không phải là tiêu điểm nhấn mạnh của tôi. Bởi điều quan trọng hơn trong bổn phận của linh mục, theo tôi, là giúp người giáo dân ý thức về ơn gọi Phép Rửa của họ – qua đó họ sẽ dấn thân thi hành sứ mạng của mình trong Giáo Hội và trong thế giới. Một trách nhiệm quan trọng không kém, đó là hợp tác với các tín hữu để biện phân các nhu cầu của thời đại, để khám phá ra những sứ vụ nào phù hợp nhất với họ, theo các khả năng riêng của họ, và cuối cùng để nâng đỡ họ trong những sứ vụ mà họ đã chọn lựa.

sát cánh với các bệnh nhân

Năm 1977, hồi tôi cần một cuộc giải phẫu thứ hai cho căn bệnh ung thư của mình, tôi đã quyết định đến với một trong những bệnh viện nghèo nhất ở Colleferro (phía nam Rôma), nơi làm việc của vị bác sĩ giải phẫu đã phát hiện ra tình trạng ung thư của tôi. Vị bác sĩ này đã học một phương pháp mới ở Hoa Kỳ – chỉ có thể được áp dụng cho những người không hút thuốc. Trong tư cách là ứng viên đầu tiên của ông, tôi xem đây là một cơ hội tuyệt vời không chỉ cho chính mình mà còn để cho vị bác sĩ  này kiểm tra hiệu năng của kỹ thuật mới. Trong khi động lực riêng của tôi ở đây có thể không hoàn toàn có tính bác ái, tôi vẫn sung sướng được ở giữa những người nghèo, trở thành “một người trong chúng ta”.

Thật ra, về mặt kỹ thuật, bệnh viện này cũng là một bệnh viện hàng đầu - nhưng mặt khác, ở đây có nhiều người rất nghèo và mang trọng bệnh nhưng không có nhiều khả năng tài chánh. Hằng ngày, một nhóm thiện nguyện đến phục vụ các nhu cầu cần thiết cho các bệnh nhân mới. Họ tặng tôi một con dao, món quà đơn giản nhất. Cũng như với mọi người nghèo, họ mang đến cho tôi một bó hoa để làm cho căn phòng và tinh thần tôi được vui tươi phấn chấn hơn. Cả những bệnh nhân cũng niềm nở với tôi. Một phụ nữ đứng tuổi ở phòng bên cạnh ngày nào cũng sang thăm. Chị hát một bài hát rất hay. Một cách hóm hỉnh, chị nói: “Tôi điếc, còn cha thì câm. Chúng ta giống nhau.” Tôi suy ngẫm và nhận ra rằng những quà tặng của người nghèo, được diễn tả một cách ân cần và thân ái, thì thâm sâu hơn và quan trọng hơn bất cứ sự an ủi nào khác.

Vì hoàn toàn câm, tôi học cách giao tiếp thuần túy bằng cử chỉ và chữ viết. Khi giai đoạn khó khăn nhất của mình đã trôi qua, tôi rất ngạc nhiên thấy các y tá và các bệnh nhân đến với tôi để lãnh bí tích hoà giải. Từ kinh nghiệm này, tôi càng xác tín hơn rằng ngay cả trong tình trạng bệnh hoạn, người ta vẫn có thể vượt qua các rào chắn để đem lại niềm an ủi cho nhau.

Kinh nghiệm sống không có thanh quản của 15 năm qua – theo một nghĩa nào đó – là một ân huệ thật sự đối với tôi, bởi vì nó đem lại cho tôi nhiều cơ hội tuyệt vời để an ủi bệnh nhân, nhất là an ủi những người cùng cảnh ngộ với mình. Đó là những cơ hội mà tôi không thể có được nếu tôi không ở trong tình trạng ấy. Tôi nói như thế bởi vì khi bạn hoàn toàn khoẻ mạnh và bạn cố gắng an ủi khích lệ một bệnh nhân, rất có thể người bệnh sẽ trả lời: “Anh nói nghe có vẻ dễ dàng. Nhưng làm sao anh thực sự hiểu được hoàn cảnh của tôi?” Tôi tin rằng một linh mục nếu không bao giờ đau ốm hay không bao giờ bị những vấn đề thể lý giống như các bệnh nhân thì sẽ không thể hiểu được hay diễn tả được niềm đồng cảm chân thành sâu sắc như một linh mục ở trong hoàn cảnh của họ.

Từ đó đến nay, tôi ngày càng thấm thía hơn lời của Ngôn Sứ Isaia: “Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi” (2V 20,5). Tôi cảm nhận được ý nghĩa thật thâm sâu trong những lời ấy bởi vì chính căn bệnh của tôi đã trở thành phương tiện kết hợp tôi với nỗi đau khổ của bao người khác; tôi có thể thực sự hiểu và chia sẻ lời cầu nguyện của họ, nước mắt của họ, niềm hy vọng được chữa trị của họ. Cũng vậy, chương hai Thư Do Thái nối kết những nỗi thống khổ của Đức Kitô một cách mật thiết với việc Ngài chia sẻ cảnh ngộ của tất cả chúng ta. Nghĩa là, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô, huynh trưởng của chúng ta, nên hoàn hảo xuyên qua đau khổ. Tôi tin rằng tôi đã được đặc ân “biết” Đức Kitô này, người anh em tôi, người cùng chịu đau khổ và là người chữa trị của tất cả. Và tôi cũng nhận ra ý nghĩa của sứ vụ Ngài bằng những cách mà tôi có thể không bao giờ hiểu nếu như chính bản thân tôi không đau khổ sâu xa.

Trong trường học đau khổ, Đức Giêsu, người anh em của tất cả chúng ta, không chỉ học vâng phục những gì Thiên Chúa đòi hỏi, mà còn học thương xót một cách đặc biệt (Dt 5,8-9). Không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu của Ngài, Đức Giêsu dạy chúng ta: “Hãy thương xót, như Cha anh em là Đấng xót thương” (Lc 6,36). Ý nghĩa sâu xa nhất của hy tế Đức Kitô trên Thập Giá được hiểu như mang lấy gánh nặng tội lỗi của loài người (Dt 9,8), bằng cách chia sẻ khổ đau của người ta với lòng trắc ẩn vô hạn. Qua cuộc khổ nạn của Ngài, Đức Kitô đã trở thành bí tích tối thượng, trở thành người chuyển tải cao nhất lòng thương xót của Chúa Cha. Vì thế, không chỉ là thích hợp mà còn là cần thiết việc các linh mục cũng chịu đau khổ, và qua đau khổ các ngài trở thành cảm thông hơn với mọi người, nhất là với các bệnh nhân.

“hãy chữa lành những người ốm đau!”  

Xuyên qua các thế kỷ, Giáo Hội đã dạy và đã thúc đẩy việc săn sóc y tế và mục vụ cho các bệnh nhân. Trên khắp thế giới, Giáo Hội đã xây dựng rất nhiều bệnh viện. Sự săn sóc đầy yêu thương đối với những người đau ốm đã là chứng tá hùng hồn của tình yêu nơi Giáo Hội. Thánh Vincent de Paul, vị linh mục thánh thiện và được thần hứng, vượt lên trên những cấm kỵ văn hóa của thời ấy, đã giải phóng năng lực của hàng ngàn nữ tu có lời khấn để họ phục vụ cho bệnh nhân. Sự săn sóc và sự hiện diện đầy yêu thương của những con người thánh thiện ấy – nam cũng như nữ – tự nó là một sức mạnh chữa trị.

Tuy nhiên, trong vài thế kỷ qua, một thái cực không lành mạnh đã phát triển trong đó việc rao giảng Tin Mừng bị tách rời khỏi sứ vụ chữa trị. Duờng như đã có hai cơ chế của Giáo Hội hoạt động song song nhau, một cho việc loan báo Tin Mừng và một cho việc chữa trị. Càng nghiêm trọng hơn nữa, đó là sự phổ biến của một nền luân lý đầy nguy hiểm và dễ gây tổn thương, lạc xa đức tin theo Thánh Kinh, như được đặc biệt ghi nhận vào thời sau Công Đồng Trindentinô. Những hiện tượng không lành mạnh này đã sinh ra nhiều chứng thần kinh loạn nghiêm trọng có nguồn gốc từ tâm lý và trí năng, đôi khi được coi là tình trạng thần kinh loạn và rối loạn tâm thần có nguồn gốc từ ... Giáo Hội!

Trái lại, cần phải khẳng định mạnh mẽ rằng một đức tin chân thực và một nền luân lý cắm rễ trong đức tin theo Tân Ước thì không bao giờ – trong bất luận trường hợp nào – là nguyên nhân của sự suy nhược tâm thần như thế. Đúng hơn, đức tin đích thực - được sống đúng đắn, được rao giảng và được làm chứng – luôn luôn là hiện thân của một sức mạnh chữa trị độc đáo.

Việc phát triển chiều kích chữa trị của đức tin và của luân lý Kitô giáo đã và vẫn còn là một mối quan tâm chính của tôi. Đức tin, trong toàn diện tính của nó, không thể bị giảm trừ đến chỉ còn là việc bám chặt vào một hệ thống các chân lý (niềm tin) được dạy bởi Giáo Hội. Một cách căn bản, đức tin - theo nghĩa chân thực và thâm sâu nhất của nó - là một mối quan hệ có tính chữa trị và có sức cứu độ với Thiên Chúa. Như vậy, một đức tin sống động phải thiết yếu quan tâm đến những mối quan hệ lành mạnh và có sức chữa trị cũng như phải quan tâm đến việc phát triển toàn diện các cơ cấu của sự sống. Trong công cuộc loan báo Tin Mừng, các linh mục và tất cả những ai nhận sứ vụ phục vụ người khác phải được hướng dẫn chu đáo và được đào tạo nội tâm cách kỹ lưỡng theo những viễn tượng này.

Cách đây khoảng 40 năm, khi tôi ở Rôma, có một phụ nữ trẻ, đang trong thời gian hoàn thành đợt thi tốt nghiệp ở đại học, bỗng trở nên cáu kỉnh, quạu quọ, hung hãn. Người ta khám phá ra rằng cô ta có một nhân cách tâm thần phân liệt (schizophrenic personality). Khi tôi lần đầu tiên gặp cô ta, con người Adam cũ trong tôi bỗng đùng đùng phẫn nộ, tôi tự hỏi: “Tại sao người ta luôn luôn đưa đến cho tôi những gánh nặng như thế này?  Người ta phải biết rằng lúc này tôi không thể làm được gì nhiều để giúp đỡ bất cứ ai chứ!” Tuy nhiên, ơn Chúa chạm đến trái tim tôi, và tôi hiểu rằng nơi người phụ nữ này, Đức Giêsu Kitô đang gặp tôi và trắc nghiệm sự nhận thức của tôi đối với Lời Ngài: “Những gì ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất của gia đình Ta đây là ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25, 40). Trong khoảnh khắc mạc khải ấy, tôi quyết định kính trọng, yêu thương người phụ nữ tội nghiệp kia. Cô đang là sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô đau khổ ngay tại cửa nhà tôi. Cảm nhận mình được yêu thương và tôn trọng, Lina sẵn sàng tín nhiệm và cộng tác với tôi. Dù vừa trải qua một phẫu thuật tâm lý (psychochirurgy) – vốn thường tàn phá mọi khả năng chủ động – Lina không bao giờ bỏ một cái hẹn nào, và trong những lần gặp nhau sau đó, cô đã biết nhìn tôi bằng ánh mắt hiền từ, trìu mến.

Mặc dù không có bằng cấp nào về tâm lý trị liệu, nhưng tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của các nhà trị liệu nổi tiếng của thế kỷ này và tôi đã chú ý nhiều đến những trường phái trị liệu nhấn mạnh đến các mối quan hệ có tính chữa trị. Loại liệu pháp này chỉ thực sự có hiệu năng tùy theo mức độ người ta có lòng kính trọng thâm sâu và bền vững đối với người bệnh. Nhưng như thế cũng chưa đủ. Bên cạnh việc học hỏi và thực hành những gì thuộc chuyên môn của một nhà trị liệu tâm lý, cũng cần phải triển khai sứ mạng của Đức Kitô như được ủy thác cho chúng ta và các hệ quả của sứ mạng đó: “Hãy loan báo Tin Mừng rằng Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa lành những người đau yếu, ... băng bó những kẻ cùi hủi” (Mt 10, 7-8; Lc 10,9). 

Đành rằng học kỹ thuật là điều rất quan trọng, nhưng sứ mạng chữa trị còn liên can đến rất nhiều chuyện khác nữa. Người linh mục phải cởi mở mình ra tới những chiều sâu của đức tin, và với một tâm hồn đầy tràn lòng biết ơn và niềm vui, người linh mục hoàn toàn phó thác chính mình trong bàn tay Thiên Chúa. Đặc biệt, tâm tình biết ơn sẽ là chìa khóa mở toang lòng trí người ta để họ đón nhận quà tặng tình yêu đầy năng lực chữa trị và giải phóng của Thiên Chúa. Như vậy, tiên vàn không phải là tôi phải làm gì – mà một cách căn bản hơn, đó là tôi phải là gì và tôi phải đem cái gì tới cho mối quan hệ của tôi với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Chỉ khi biết mở rộng lòng mình ra đón nhận phúc ân và an bình tràn ngập của Thiên Chúa thì người linh mục mới có thể đem lại sức chữa trị cho người anh em bên cạnh, nhất là cho những ai bệnh hoạn thể lý hay tâm thần. Điều này khác hẳn với hình ảnh ‘bác ái’ của người linh mục ở xa xa bệnh nhân -và từ trên cao nhìn xuống, ban phát cho người ta ánh mắt thương hại!

Sự cứu chuộc, sự lành mạnh và sự chữa trị được đóng dấu sâu sắc bởi điều mà thần học gọi là ơn dự phòng (gratia praeveniens). Khi giải thích điều này cho chính mình và cho người khác, tôi so sánh nó với một món quà ân sủng được ban cho trước. Chẳng hạn, chính Thiên Chúa luôn luôn có sáng kiến tín nhiệm và yêu thương chúng ta trước - dù chúng ta là ai, dù chúng ta nói gì và làm gì. Các linh mục và các thừa tác viên săn sóc bệnh nhân có thể đi vào trọn vẹn trong nhiệm cục cứu độ này theo mức độ mà – để tôn vinh Thiên Chúa – họ luôn luôn bày tỏ cho người anh em mình, ngay cả những người thù địch nhất, một sự tín nhiệm trước và vô điều kiện chảy ra từ thiện chí. Nghệ thuật cung ứng sự khích lệ trước được ghi nhận ở cốt tủy của Paraklesis trong Thánh Kinh, đó là sự khích lệ tuôn chảy từ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Những bạn trẻ thường xuyên bị đánh giá thấp, bị lăng nhục, bị trách mắng bởi cha mẹ và bởi các nhà giáo dục của mình sẽ vô tình đi đến chỗ tự xem mình là vô giá trị. Khi người ta “dis-ease”[1] với chính mình trong thời niên thiếu, lớn lên người ta sẽ đi đến chỗ bại xụi, yếu nhược, què quặt, trở thành những bệnh nhân phung cùi thời hiện đại. Ngược lại, những cha mẹ và nhà giáo biết sống trọn vẹn vai trò Paraklesis và biết khôn ngoan đặt sự tín nhiệm trước nơi con cái, thì họ sẽ có khả năng làm những phép lạ – theo nghĩa đích thực của Thánh Kinh – có sức chữa trị các quả tim và các mối quan hệ căn bản nhất. Hơn nữa, trên chính nền tảng ấy, đôi khi họ có thể chữa lành cả các chứng bệnh thực tế nữa. Đây là những nhà chữa trị thực sự có năng lực sáng tạo.

Trong tư cách là linh mục, chúng ta đừng bao giờ gán bất cứ loại sức mạnh kỳ diệu nào cho chính chúng ta viện lẽ rằng nhờ được truyền chức thánh. Chúng ta chẳng có gì kỳ diệu hay thần nhiệm cả đâu! Đàng khác, Thiên Chúa thực hiện những việc trọng đại nơi và qua những người – như Đức Maria – biết ca ngợi và vững tâm tín thác vào Ngài. Đúng theo ơn gọi của mình, không hơn không kém, chúng ta là những cộng tác viên bé nhỏ của Thiên Chúa, những kẻ mở rộng lòng mình đón nhận ơn Chúa để đem lại sự chữa trị trong mọi mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, với tha nhân và với toàn thể tạo vật. Luôn luôn tiên vàn chúng ta phải nhận thức rằng cả chính chúng ta nữa cũng là những kẻ luôn luôn cần được chữa trị - cả chúng ta nữa cũng không ngừng cần đến tình yêu và sự hiện diện đầy khích lệ trước của Thiên Chúa. Xét cho cùng, chúng ta cũng chỉ là những nhà chữa trị mang đầy thương tích mà thôi. Trong mức độ mà chúng ta biết mau mắn khích lệ và tín nhiệm người khác, thì sự tín nhiệm và khích lệ này sẽ chảy ngược về với chúng ta – hóa thành năng lực chữa trị và củng cố.

Cuối cùng, không chỉ một mình các Kitô hữu, các tông đồ giáo dân hay các linh mục, được mời gọi và được sai đi trong sứ vụ chữa trị. Nói theo ngôn ngữ của Cha Teilhard de Chardin thì chính “Cảnh Vực Thần Linh” là nguồn mạch trước hết từ đó mọi năng lực chữa trị chảy ra và lan tỏa. Nhận thức quan trọng này, do đó, buộc chúng ta phải tìm kiếm những mối quan hệ lành mạnh và những cơ cấu lành mạnh ở khắp nơi, bên trong và bên ngoài Giáo Hội. Vả chăng, nhãn quan này không phát xuất từ sứ mạng nền tảng của chúng ta là loan báo Tin Mừng và chữa lành những người đau yếu một cách toàn diện đó sao?

vai trò chữa trị

của thần học luân lý

và của việc giảng dạy luân lý

Phải dần dần tôi mới khám phá được rằng thần học luân lý và, tổng quát hơn, sư phạm luân lý có những chiều kích chữa trị và tác động rất đáng kể. Một trong những trách nhiệm quan trọng nhất là giúp cho Giáo Hội, nhất là các linh mục, ngày càng trở nên những tấm gương mẫu mực hơn, những biểu tượng sống động hơn của vị Thầy Thuốc vĩ đại là Đức Giêsu Kitô – bằng việc sống triệt để Tin Mừng về sự chữa trị. Đành rằng các linh mục không giữ độc quyền về sứ mạng chữa trị và mạc khải của Giáo Hội, tuy nhiên họ có thể phục vụ tốt nhất cho dân Thiên Chúa trong việc tiên phong sống sứ mạng chữa trị một cách nhất quán, trong xây dựng cộng đoàn, trong rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.

Người ta luôn luôn choáng váng khi nhận thấy một nền luân lý sách nhiễu - gây ra bệnh hoạn, phẫn nộ, xét nét và gây hấn - trong Giáo Hội. Nếu có tồn tại những tâm bệnh có nguồn gốc từ Giáo Hội gây phiền hà cho hầu như mọi mối quan hệ chủ yếu với Thiên Chúa, với bản thân và với tha nhân, thì cần phải có một nỗ lực phối hợp để điều nghiên và sửa chữa tất cả những qui phạm của thần học, nhất là thần học luân lý – vốn không tổng hợp và hội nhập được hai chiều kích chữa trị và mạc khải. Đương nhiên công việc này cũng cần đến một cuộc cải cách các cơ cấu Giáo Hội có tính đàn áp, chẳng hạn những cơ cấu hậu thuẫn cho chủ trương tập quyền đầy quan liêu và cho một quan điểm độc đoán về vai trò lãnh đạo ở mọi cấp độ. Trong nỗ lực này, khởi điểm của cuộc cải cách phải luôn luôn là những cố gắng hợp tác của chúng ta để hiểu biết thấu đáo Đức Kitô là Đấng Chữa Trị, là Ngôn Sứ và là hình ảnh Nhập Thể của Đấng Sáng Tạo.

Nhiều người Công Giáo đã được đánh thức bởi nhận định kịp thời và thích đáng của Karl Rahner rằng: Giáo Hội trước Công Đồng, thật đáng tiếc, đã gán là tội trọng (mortal sin) cho vô số chuyện vặt vãnh và vớ vẩn. Trong tư cách là một nhà thần học luân lý trẻ, tôi có lần giảng tĩnh tâm ở Tyrol cho một trăm linh mục. Trong phần dẫn nhập, tôi nói: “Thưa các cha, tôi không có ý giảng về một danh mục các tội trọng.” Một linh mục hạt trưởng cao niên lập tức công khai phản ứng lại: “Nhưng như vậy là không thực tế! Làm sao chúng ta là những linh mục tránh được khả năng phạm tội trọng trong liên quan đến những luật chữ đỏ?” Quan điểm của vị linh mục này phát xuất từ thủ bản Noldin cũ kỹ, trong đó vạch ra vô số qui định về nghi thức mà các linh mục buộc phải tuân hành “nếu không thì mắc tội trọng”. Chẳng hạn, cho đến năm 1949, Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích của Vatican còn tuyên bố rằng một phụ nữ hay nữ tu mà trong Thánh Lễ tới gần bàn thờ vượt quá lan can cung thánh là mắc tội trọng. Khoảng ba mươi năm sau, có lần tôi vẫn còn đụng chạm với một hồng y kiên quyết bảo vệ một luật của Giáo Hội buộc trẻ em trên bảy tuổi phải xưng tội lần đầu trước khi rước lễ lần đầu, vì người ta giả định rằng trẻ em ở tuổi này có khả năng phạm tội trọng.

Kinh nghiệm ấy nhắc tôi nhớ lại thật rõ những nỗi kinh hoàng thuở ấu thời của mình với vị cha sở khư khư đòi chúng tôi xưng thú mọi tội trọng, đe doạ rằng chúng tôi sẽ bị đốt trong lửa và diêm sinh nếu như chúng tôi xưng thú không đầy đủ! Người ta trình bày cho trẻ em – chưa nói là cho người lớn - một khuôn mặt Thiên Chúa kỳ dị biết bao! Rất may là cả lúc đó lẫn bây giờ tôi vẫn không chia sẻ tư tưởng bi quan của Eugen Drewermann. Nhưng ngay cả trong thời đại hiện nay, quyền bính Giáo Hội ở mọi cấp vẫn cần phải quan tâm đến những cảnh báo nghiêm túc của các nhà trị liệu tâm lý có nhiệt tâm và giàu hiểu biết khi họ cảnh giác chúng ta về các chứng bệnh có nguồn gốc từ Giáo Hội, những chứng bệnh có thể phát xuất từ một cái nhìn tiêu cực, sai trái và hà khắc.

Một điều nhấn mạnh mấy cũng không vừa, đó là giáo huấn của Giáo Hội và việc thực  hành mục vụ - trong quan hệ với mọi chiều kích và mọi cơ cấu của đời sống - phải được giải phóng khỏi một nền luân lý cứng nhắc và phải được định hình lại trong viễn tượng một tổng hợp vững chắc và có tính nhân văn của hai sứ vụ rao giảng và chữa trị. Hơn nữa, tổng hợp này phải đặc điểm hoá việc huấn luyện và đời sống linh mục. Trong khi từ đầu, tôi là một người ủng hộ mạnh mẽ thần học giải phóng, tôi vẫn khẳng định mạnh mẽ sự cần thiết phải bao gồm chiều kích giải phóng và chữa trị trong mọi qui phạm thần học.

quan tâm mục vụ

đối với những người li dị

Mối quan tâm của tôi đối với những người li dị không phải là kết quả của các nghiên cứu lý thuyết – mặc dù tôi vẫn nhìn nhận công việc nghiên cứu có vai trò rất quan trọng. Đúng hơn, mối quan tâm này của tôi phát xuất từ hai nguồn: một là, từ tình thương và niềm kính trọng của Đức Giêsu đối với những con người đứng bên lề cuộc sống, những người bị coi là hư hỏng - và hai là, từ vô số các kinh nghiệm của bản thân tôi với những người li dị.

Nỗi thất vọng cùng cực và nỗi khổ đau tâm cảm của quá nhiều người li dị thiết tưởng cũng đã đủ lý do không chỉ để thúc đẩy niềm cảm thông nơi các linh mục mà còn để dẫn Giáo Hội tới một cách suy nghĩ mới. Gần như ở khắp những nơi trên thế giới mà tôi đã đi qua, các bạn tôi – nhất là những tu sĩ nam nữ – đã giới thiệu những người li dị đến gặp tôi, hoặc đã bày tỏ với tôi những nỗi quan tâm của họ đối với những người li dị mà họ quen biết. Tôi nhớ có lần, một giám mục Phi Châu giới thiệu chính em trai của ngài, một người li dị, đến gặp tôi. Giám mục nói với người em mình: “Chú hãy làm theo những gì Cha Haring khuyên chú làm!”

Những nỗi khổ đau cùng cực của những người li dị – thường đa số họ là những người rất đáng nể phục – luôn luôn làm tôi trằn trọc và suy nghĩ về những Lời này của Đức Kitô: “Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). 

Tôi cảm kích sâu xa trước tấm lòng của Đức Giêsu đối với người phụ nữ Samaria – người phụ nữ mong muốn có được một đời sống nghiêm túc, nhưng đã bị khước từ bởi năm người đàn ông. Trong truyền thống Do Thái lúc bấy giờ, một “người đàng hoàng” sẽ không bao giờ tiếp xúc với một phụ nữ như thế. Đức Giêsu đã không chỉ khôi phục lại lòng tự trọng và phẩm giá cho chị mà, hơn thế nữa, Ngài đặt chị làm một tông đồ của Ngài. Trong tư cách là một môn đệ Đức Giêsu, tôi không thể nghĩ đến những con người khốn khổ ấy mà không đồng thời nghe âm vang Lời Đức Giêsu: “Tôi đến không phải để xét xử, nhưng là để chữa trị” (x. Ga 3,17; Lc 19,10).

Trong đa số các trường hợp li dị mà mình tiếp xúc, tôi cảm nhận đó là một nỗi mất mát và nỗi đau bi thảm hơn là một tội. Từ kinh nghiệm và suy tư của chính mình, tôi ngày càng xác tín rằng phương thức oikonomia của Giáo Hội Chính Thống phù hợp với Thánh Kinh hơn so với hữu thể luận (ontologism) đầy tính pháp lý của giáo thuyết Công Giáo hiện đại. Tôi cho rằng chúng ta nên liều chấp nhận khổ sở (khổ sở do bị hiểu lầm và khổ sở do bị chỉ trích) để dám suy nghĩ lại và định hình lại việc săn sóc mục vụ nhằm giúp chữa trị những con người khốn nạn và mang đầy thương tích này. Trong tư cách là các thừa tác viên của Đức Kitô đối với dân Ngài, phải chăng chúng ta không thể hình dung rằng Đức Giêsu đã viết tên của chúng ta – tên bạn và tên tôi – trên đất và nói: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị ấy trước đi!” (Ga 8,7-8)? Xin mở ngoặc để nói thêm ở đây: nhiều người li dị đến gặp tôi không thể bị gọi là những kẻ ngoại tình – theo bất cứ nghĩa nào!

Người linh mục đích thực không phải là một quan tòa cũng không phải là một robot bị đóng hộp trong những phạm trù phán quyết quá đơn giản. Phần mình, thú thực tôi rất xấu hổ nếu cảm thấy mình hơi thoáng nghiêng về ý nghĩ rằng những người li dị và tái hôn là những người “đang sống trong tình trạng tội trọng một cách khách quan” sau khi họ đã chịu đựng quá nhiều nỗi khổ đau và ô nhục trong biến cố gãy đổ hoàn toàn cuộc hôn nhân thứ nhất của mình.

Săn sóc một cách chữa trị cho những người li dị, đó cũng là một trắc nghiệm đo lường quyết tâm đại kết của Giáo Hội. Các Kitôhữu Chính Thống và nhiều Kitôhữu thuộc các giáo hội Cải Cách khác rất choáng váng trước sự khắc nghiệt của những giám mục và linh mục Công Giáo cố khư khư bám vào một hữu thể luận nặng tính pháp lý lỗi thời để cắt xén, bóp méo hoặc thay thế hoàn toàn nhãn quan của Thánh Kinh về tính bất khả phân ly bằng lối suy nghĩ và kiểm soát quá đơn giản hóa và quá nhũng nhiễu của họ.

Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức (Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!