.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời Giới Thiệu

Đôi Dòng Về Tác Giả

1. Kinh nghiệm góp nhặt trên đường đời tôi

2. Ánh sáng chói loà của Thánh Kinh

3. Nhận hiểu ý nghĩa và mục đích sâu xa hơn của ơn gọi Linh Mục

4. Chức Linh Mục trong buổi ban đầu

5. Khuôn mặt người Linh Mục qua giòng lịch sử

6. Chức Linh Mục và đời sống chủng viện theo mẫu thức TRIĐENTINÔ

7. Những vấn nạn xung quanh vấn đề độc thân

8. Khuôn mặt Linh Mục thời công đồng và sau công đồng

9. Dự đoán tương lai của ơn gọi Linh Mục

10. Những con vật trên tàu NÔ-E hôm nay

11. Này tôi là nữ tì của Đức Chúa!

lời nguyện đúc kết

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Giáo Hội cần loại Linh Mục nào?
Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức
Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
5. KHUÔN MẶT NGƯỜI LINH MỤC QUA GIÒNG LỊCH SỬ

Khi tôi chọn trở thành một linh mục, khuôn mặt người linh mục (nhất là trong các dòng tu) không còn quá cứng nhắc như có thể ghi nhận trong các thế kỷ trước đây. Vào thời điểm đó, cũng như ngày hôm nay, cũng có một số một số dòng tu (của linh mục và giáo dân) với những linh đạo đặc sắc và đa dạng, những khả năng dồi dào để đáp ứng nhiều sứ vụ khác nhau.

Tuy nhiên, đối với chức linh mục triều, khuôn mặt của một vị mục tử ‘toàn năng’ vẫn tiếp tục được khẳng định. Một cách tiêu biểu, ông cha sở một chiều của Công Đồng Tridentinô được đặc trưng bởi tính đồng nhất, bởi sự vâng phục tối mặt, và thường bởi sự thiếu sáng tạo. Mặt khác, các cha sở, các phụ tá mục vụ, các tuyên úy trong khi hoàn toàn phục tùng giám mục của mình thì cũng được “bù lại” bằng một chế độ linh mục nặng tính kiểm soát trên các tín hữu. Một thoáng nhìn về quá khứ có thể giúp chúng ta nhận ra nguồn gốc của tình trạng này và cũng có thể giúp chúng ta đưa ra những dự án hợp lý cho tương lai – điều mà chúng ta có thể nói rằng vốn đã bắt đầu trong thực tế rồi.

 

giám mục và linh mục

trong tư cách là những vị tuẫn đạo

Từ “tuẫn đạo” (martyr) ban đầu có nghĩa là làm chứng cho đức tin. Theo nghĩa đó, các Tông Đồ, những người kế vị của các ngài, và quả thực tất cả các tín hữu trong mọi thời đại đều được mời gọi làm chứng cho Đức Giê-su Kitô, cho Tin Mừng của Ngài và cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Các giám mục thuở đầu tiên thường không có nhiều tín hữu trong địa phận của các ngài hơn so với một cha sở của thời nay. Tầm cỡ tương đối nhỏ ấy của các địa phận cho phép các giám mục gần gũi giáo dân hơn. Các ngài không sở hữu những ngôi nhà nguy nga lộng lẫy cũng không sống đời sống ưu đãi dư dật. Trong mọi khía cạnh bên ngoài, các giám mục thuở đầu tiên sống cùng một mức độ như các anh chị em Kitôhữu của các ngài. Điều thực sự phân biệt các ngài với đại đa số các tín hữu là chứng tá hữu hình của các ngài cho sự chết và sự Phục Sinh của Đức Giêsu qua thái độ các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết tuẫn đạo. Thật vậy, đây là yếu tố cốt yếu trong sự thánh hiến của các ngài.

Cho đến khoảng giữa thế kỷ thứ hai, các giám mục hay các giám quản là những vị lãnh đạo cùng với các trưởng lão trong địa phận của mình. Lúc đó chưa ngã ngũ rõ ràng về chuyện các ngài khác với các trưởng lão như thế nào. Tuy vậy, có một điều thật chắc chắn: không vị nào trong các ngài có khao khát hay có khuynh hướng trở thành quí phái, quí tộc. Trong suốt giòng lịch sử Giáo Hội, vẫn thường xuyên có những mẫu gương linh mục đầy sức thuyết phục trong tư cách là những chứng nhân tuẫn đạo. Trong những thập niên mới đây thôi, các mẫu gương này đặc biệt hiện lộ tại Châu Mỹ La Tinh, nơi mà nhiều – nếu không phải là tất cả – các giám mục và các linh mục đều đứng về phía người nghèo, dám liều lãnh cái chết tuẫn đạo dưới tay các thế lực giàu có. Chính phẩm chất này là nét phân biệt các vị ấy với những giám mục và hồng y khác vốn bám víu lấy tham vọng hão, bám víu những thái độ quí tộc, những tước vị sáo rỗng, và những cung cách độc đoán nhằm phục vụ cho lợi ích riêng.

các ông hoàng của Giáo Hội

trong thời đại Constantine

Với chiến thắng của Constantine và với mối liên minh tiếp theo đó giữa Giáo Hội với hoàng đế và với giới quí tộc, một kiểu thức mới và kỳ quặc về một Giáo Hội quân chủ đã phát sinh – kiểu thức này trở thành hiện thực đặc biệt do bởi các giám mục vui mừng đón nhận các bổng lộc về đặc quyền và đẳng cấp. Được thoát khỏi tình trạng nghèo khổ, bách hại và tuẫn đạo, thật oái ăm, các ngài xem ra lại đánh mất chính sự tự do mà Đức Kitô đã giải phóng tất cả chúng ta để đem lại cho chúng ta.

Constantine và các hoàng đế, các vua và hoàng thân tiếp theo sau biết rõ rằng một Giáo Hội mà các vị lãnh đạo được hưởng các đặc quyền do một sắc dụ của nhà nước - và do đó lụy thuộc vào nhà nước - sẽ có thể trở thành hết sức hữu ích cho quyền lực “được thần thánh hóa” một cách sai lạc của họ. Việc vị giám mục của đế quốc hay của vương quốc xức dầu các ông vua là một biểu tượng kinh khủng của cái gọi là “tư tế của các vua” trong một Giáo Hội đầy hào quang và vinh dự. Khi sự việc cứ diễn tiến theo lôgíc ấy, chúng ta chẳng có gì phải ngạc nhiên để nhận thấy rằng trên chóp đỉnh của khối liên minh ma quỉ này giữa các hoàng đế, các chức sắc của Giáo Hội, thậm chí cả các giáo hoàng, câu hỏi ai là người có quyền lực cao nhất là một câu hỏi thường xuyên âm ỉ. Và tất cả đều nhân danh Thiên Chúa trong Đức Giê-su Kitô! Trong khi các vị lãnh đạo Giáo Hội có thể nghĩ rằng như vậy vinh quang của Giáo Hội được tăng triển, thì trái lại, Giáo Hội đang suy sụp hoàn toàn, nếu hiểu trong ánh sáng lời mời gọi của Đức Giêsu trong tư cách là “Con Người” qua cuộc thánh hiến trong phép rửa của Ngài ở sông Gio-đan, và cuối cùng qua việc Ngài đổ máu ra trên Thập Giá.

Trong bất cứ tôn giáo nào, hễ có tồn tại thứ xung lực quái gở này đẩy tôn giáo tới chỗ chia sẻ quyền lực với thế tục, thì đó rõ ràng là những mưu chước cám dỗ của Satan – những mưu chước vốn bị Đức Kitô lật tẩy trong câu chuyện cám dỗ mà Tin Mừng Matthêu kể lại.

Tuởng chỉ cần nêu ra đây ba ví dụ để minh họa kiểu thức về chức linh mục quân chủ vốn tràn lan trong thời Constantine – đối nghịch với kiểu thức phép rửa của Người Tôi Tớ phi bạo lực của Thiên Chúa.

-Hệ Thống Danh Vọng: Một sinh viên trước đây của tôi – là một linh mục tuyệt vời – đã đến gặp tôi để xin ý kiến về việc có nên chấp nhận một đề xuất gia nhập ngành ngoại giao của Giáo Hội hay không. Đầu tiên, tôi ngần ngại trình bày quan điểm của mình, nhưng cuối cùng tôi nói thẳng rằng hình thức hiện tại của các cơ quan ngoại giao (trong Giáo Hội) không phản ảnh ánh sáng Tin Mừng lắm, nhưng một linh mục thông minh và khiêm tốn có thể làm nhiều việc hữu ích và có thể phòng tránh những cạm bẫy sừng sững. Vì thế, tại sao không tận dụng cơ hội này để cống hiến một sự phục vụ tốt nhất cho ngành ngoại giao – là ngành vốn tự bản chất không phải là xấu xa? Khi đưa ra ý kiến ấy, tâm trí tôi nhớ đến những con người vĩ đại như Gioan XXIII, cũng từng làm việc trong ngành ngoại giao, đã phục vụ cho Nước Thiên Chúa và cho thiện ích của nhiều người.

Thật lâu về sau, tôi mới có dịp đọc những gì Giuseppe Roncalli viết trong một lá thư đề ngày 24 tháng 11, 1928: “Tôi sung sướng rời khỏi Rôma. Bởi tôi thật phiền lòng khi phải chứng kiến tất cả những biểu hiện bần tiện. Ai cũng hăm hở phấn đấu để được bổ nhiệm, được danh vọng; và người ta không ngừng đồn đoán với nhau về chuyện thăng quan tiến chức. Ôi, một sự xuống cấp đáng buồn của đời  sống linh mục!”

Ít lâu sau đó, người bạn linh mục nói trên của tôi trở lại gặp tôi và cho biết rằng anh ta đã bỏ con đường sự nghiệp của mình sau khi đã tiến lên hết chức này đến chức khác và cuối cùng nghe có kẻ nói vào tai mình: “Rồi có ngày anh sẽ leo lên tới cả chức hồng y đấy!” Anh bạn tôi kể: “Một đêm nọ con bị sốc khi trong giấc mơ con thấy mình trở thành một hồng y.” Thật lòng, tôi phải thú nhận rằng mình đồng thời vừa mừng vừa tiếc – tiếc vì ngành ngoại giao bị mất con người tuyệt vời này, nhưng mừng vì anh ta đã đề kháng được những cám dỗ của chức quyền.

Hiện nay, có khoảng mười bảy tước hiệu và sự đề bạt sáo rỗng được ban tặng bởi Vatican. Trước đây, Thánh Philíp Nêri, một linh mục và là nhà hài hước tuyệt vời, đã cố dùng lối khôi hài và đôi khi châm chọc để làm nhụt chí các linh mục vốn bám víu vào những quyến rũ kệch cỡm này. Có lẽ đã đến lúc  chúng ta nên huy động khả năng trào lộng của mình để phản kháng một cách phi bạo lực cái hệ thống danh vọng mang tính phản Tin Mừng vẫn còn rất phổ biến hôm nay.

-Những Lễ Nghi Phô Trương Phù Phiếm: Hồi tôi đến Rôma trong tư cách là một giáo sư  trẻ, tôi đã giúp lễ trong một nghi lễ long trọng tại Đền Thờ Thánh Phê-rô. Giáo hoàng được kiệu trên ngai, được hộ tống bởi những người Ý có đẳng cấp cao trong trang phục quí phái. Theo sau giáo hoàng là các hồng y vận áo choàng đỏ tía, vạt rộng, với những đuôi tua dài cả chục mét được các chủng sinh cung kính nâng trên tay. Thật là một quang cảnh dị hợm! Hay nói đúng hơn, thật là một trò bắt chước lố bịch! Ít năm sau, khi Giáo Hoàng Piô XII quyết định cắt đuôi áo bớt đi ba mét, các vị hồng y uy phong kia đã thất vọng ra mặt. Tạ ơn Chúa, mọi sự đã được cải thiện kể từ đó.

-Tài Sản Và Quyền Lực: Vào năm 1870, khi Giáo Hoàng Piô IX bị mất các lãnh địa giáo hoàng, và đồng thời mất luôn cả quyền lực chính trị, ngài và các vị kế nhiệm của ngài đã tự  giam mình trong Vatican, hứa sẽ không bao giờ rời gót khỏi đây cho đến khi nắm lại được những bất động sản đồ sộ ấy. Gần sáu mươi năm sau, năm 1929, Giáo Hoàng Piô XI đã can đảm từ bỏ cuộc đấu tranh vô ích ấy, một cuộc đấu tranh quá dằng dai song chỉ hậu thuẫn cho một hệ thống đã tiêu vong và không còn hợp thời nữa. Mãi cho đến năm 1958, người ta mới thấy một giáo hoàng tên là Gioan XXIII đi ra khỏi lãnh thổ Vatican để thực hiện những cuộc viếng thăm mục vụ của ngài.

Những sự kiện nói trên và nhiều sự kiện khác nữa không có liên hệ gì với một lịch sử thù địch hay tội ác. Tuy nhiên, việc ôn lại những kinh nghiệm này có thể giúp ích nhiều cho Giáo Hội, đặc biệt là cho chức linh mục, trong chừng mực mà chúng ta rút tỉa được bài học từ những kinh nghiệm này và có đủ can đảm để – một lần dứt khoát - tháo gỡ khỏi Giáo Hội và chức linh mục tất cả những dấu vết của kiểu thức thời Constantine.

Ngoài ra, cũng cần ghi nhận rằng trong Giáo Hội luôn luôn có những phong trào hô hào một sự hồi sinh và tìm lại những nguồn gốc của chức linh mục cắm rễ trong lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Hãy chỗi dậy, chúng ta hãy bước tới!” Tôi xin nhắc lại ở đây hai vị giám mục mẫu mực của Milan để làm ví dụ. Vào thế kỷ thứ tư, với lòng can đảm đến độ liều lĩnh, Thánh Ambrôsiô đã buộc hoàng đế phải ăn năn hối lỗi vì những sự đổ máu mà ông đã gây ra trước khi ông có thể được nhận trở lại vào Giáo Hội. Thánh Charles Borromeo, được tấn phong hồng y bởi giáo hoàng là cậu của mình, đã cắt giảm con số các người hầu xuống ‘chỉ’ còn mười hai người, và sự việc này đã suýt gây ra một xáo trộn lớn. Chưa hết, vào cuối đời ngài, Charles đã không chỉ cắt hết các biên chế người hầu của mình mà ngài còn tự vác trên vai chiếc giường của ngài, với một người nghèo đang nằm trên đó – một cử chỉ vừa có tính thực tại vừa có tính biểu tượng cho thấy nỗi niềm ăn năn thống hối của ngài về lối sống linh mục bất xứng của mình trước kia.

Quyền năng Chúa Thánh Thần và ánh sáng của Tin Mừng vẫn không ngừng canh tân bộ mặt của thế giới và của Giáo Hội. Một cách rõ ràng, quyền năng Chúa Thánh Thần đã biểu lộ trong thế kỷ này khi tất cả thế giới Kitô giáo đềàu tin rằng, qua sự khôn ngoan và sự hướng dẫn của Giáo Hoàng Gioan XXIII, sự thật và căn tính nguyên thủy của Tin Mừng đã vượt thắng trên những truyền thống méo mó của con người.

cuộc cách mạng phi bạo lực

của phong trào đan tu

Khi hòa bình được thiết lập giữa đế quốc Rôma và Giáo Hội, bắt đầu có những làn sóng đông đảo người ta ùn ùn gia nhập Giáo Hội. Tuy nhiên, hiện tượng ấy thật đáng ngờ, vì chẳng ai có thể biết bao nhiêu người trong số ấy hoán cải (converted) thực sự. Chọn trở thành một Kitôhữu không còn được thấy có nghĩa là chọn đau khổ và chọn liều mất mạng sống vì danh Đức Kitô nữa. Thay vào đó, bấy giờ đối với nhiều người, nhất là đối với các giám mục và linh mục, Kitô giáo trở thành một ‘vụ’ làm ăn béo bở!

Tuy nhiên, ba thế kỷ tuẫn đạo đã không hóa thành vô ích, bởi vì, từ đầu triều đại Constantine, vô số Kitôhữu đã nhận ra rằng mối liên minh giữa “ngai vàng và bàn thờ” thật rất nguy hiểm và có sức hủy hoại sự tinh tuyền của đức tin. Ngay cả ở Constantinople nơi mà những người kế vị Constantine ngự trị, cũng có những giám mục sáng suốt và kiên định như Gregory Nazianzus và John Chrysostom – là những người sống theo kiểu thức của Người Tôi Tớ phi bạo lực, khiêm nhường và đau khổ của Thiên Chúa bằng cách lật tẩy những quyền lực phô trương và những ưu đãi đội lốt thánh thiêng. Các vị ấy vẫn trung thành với phong trào đan tu ban đầu – và do bởi lập trường kiên vững của mình, các ngài đã phải chịu nhiều nỗi thống khổ.

Sự xuất hiện của phong trào đan tu vào thế kỷ thứ tư là một phản kháng có tính ngôn sứ và phi bạo lực chống lại mẫu thức Constantine của Giáo Hội và của chức linh mục. Đó là một phong trào mang tầm vóc một cuộc cách mạng. Trong khi các tu sĩ Đông phương và Tây phương không ly khai khỏi Giáo Hội dù dưới hình thức nào, thì họ vẫn đấu tranh một cách dứt khoát không khoan nhượng để vãn hồi cho Giáo Hội tiếng gọi trung thành bước theo và làm hiện thân của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Thiên Chúa. Thời ấy cũng không hề xảy ra tình trạng khan hiếm ơn gọi tu trì như trường hợp của chúng ta hôm nay. Trong chừng mực mà các Kitôhữu nhiệt thành ý thức mình là cộng đoàn Kitô giáo thấm đẫm trong tình yêu đối với Đức Giêsu và Giáo Hội Người - như sức sống của những cộng đoàn dùng bữa hồi thế kỷ đầu tiên - thì người ta ùn ùn kéo đến xin gia nhập.

Ban đầu, phần đông các tu sĩ là giáo dân, nhưng cũng có một số linh mục. Một vài tu viện trưởng được truyền chức thánh. Chẳng bao lâu, người ta ghi nhận rằng các tu viện nổi tiếng chính là những trường đào tạo tuyệt vời cho các giám mục tương lai. Việc chọn lựa các giám mục xuất thân từ các tu viện (nhất là ở phần phía đông của đế quốc) là một liều thuốc giải độc chống lại những hậu quả tai hại của mối liên minh giữa ngai vàng và bàn thờ.

Lịch sử đời sống đan tu là một nghiên cứu thú vị vén mở cho thấy những nhập nhằng giữa một bên là nhiệt tình cháy bỏng và bên kia là nỗi u ám phủ trùm trên Giáo Hội. Giáo Hội thời Constatine thường xâm chiếm các tu viện và cướp đi các của cải để làm nguồn biếu tặng cho giới vị vọng trong Giáo Hội và nhiều khi cũng là để cứu giúp người nghèo. Phải thành thật nhìn nhận rằng những cuộc cướp bóc ấy ngày càng trở nên một nguồn cám dỗ cho người linh mục. Trong suốt các thế kỷ cho đến thời Cải Cách, một mối căng thẳng lớn tồn tại giữa một bên là những cố gắng cải cách không ngừng của đời đan tu và bên kia là tình trạng hủ hóa ngày càng leo thang trong lòng Giáo Hội.

Giáo Hội xét như một toàn thể (bao gồm cả những phong trào cải cách dũng cảm nhất) luôn luôn cần đến những sự canh tân liên lỉ. Hoán cải không phải là một công việc được làm một lần thay cho tất cả. Nguyên tắc tu đức về sự “không ngừng hoán cải” và nguyên tắc giáo hội học về sự “không ngừng cải cách” (ecclesia semper reformanda) là hai nguyên tắc bổ sung để hoàn bị lẫn nhau. Luôn luôn cần phải có những cuộc lên đường trở lại – và cám ơn Chúa, những cuộc lên đường như thế vẫn xảy ra ngày càng nhiều hơn. Sự thay đổi nơi bản thân người linh mục và sự thay đổi trong cơ chế chức linh mục là những nỗ lực tương tác lẫn nhau, như trường hợp của các dòng tu và các cộng đoàn tông đồ vậy.

cuộc phản kháng phi bạo lực

của các dòng hành khất

Khi quyền lực và uy danh giáo hoàng lên đến mức cao nhất trong triều Giáo Hoàng Innocent III, không phải là hoàn toàn ngẫu nhiên việc bộc phát phong trào hành khất như một cơn lốc của Thánh Thần. Phong trào này thu hút hàng ngàn con người phi bạo lực, nam cũng như nữ, trong Giáo Hội lữ hành. Khuôn mặt quan trọng và hấp dẫn nhất của phong trào này là Thánh Phan-xi-cô Assisi, vị ngôn sứ vô song về tinh thần đơn sơ khó nghèo trong mọi phương diện, sống Tin Mừng của Người Tôi Tớ nghèo khó và phi bạo lực của Giavê. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Phan-xi-cô tỏ ra vừa là một ngôn sứ phi bạo lực vừa là một con người vững tin vào lối sống giản dị, trung thực và nghèo khó.

Là một con người có căn bản tu đức thâm sâu, tại sao Thánh Phan-xi-cô không hướng đến chức linh mục? Rất may là ngài đã chấp nhận chức phó tế với niềm hy vọng rằng khuôn mặt của linh mục và giám mục sẽ được vãn hồi trong ánh sáng của Người Tôi Tớ Giavê, tương tự như niềm hy vọng của Thánh Đa-minh, vị sáng lập dòng hành khất thuyết pháp (dòng Đa-minh).

Chắc chắn đã đến lúc chúng ta cần nhìn ngắm lại dung mạo của chức linh mục vốn đã tác động mãnh liệt trên các linh mục thánh thiện trỗi vượt của quá khứ, nhất là các vị sáng lập các dòng tu. Thánh Inhaxiô Loyola và Thánh Anphongsô Liguori đã dành rất nhiều ưu tư tìm kiếm dung mạo đích thực của chức linh mục và của mối dây huynh đệ. Những lời khấn mà Thánh Anphongsô và các bạn đường đầu tiên của ngài đảm nhận đã đặc biệt cho thấy cụ thể nỗi ưu tư này. Các ngài đã khấn hứa sẽ không bao giờ phấn đấu kiếm tìm vinh dự, kiếm tìm các tước hiệu và ngay cả chức giám mục trong Giáo Hội. Hơn nữa, các ngài nguyện sẽ không chấp nhận bất cứ một vinh dự nào, trừ phi phải chấp nhận vì sự vâng phục minh nhiên và luôn luôn ở trong mối quan hệ với lời khấn ưu tiên phục vụ người nghèo khổ nhất và những kẻ bị bỏ rơi nhất.

xuất khẩu và

nhập khẩu các linh mục

Các nhà thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mang theo với họ những linh mục từ đất nước quê hương và từ nền văn hóa của họ. Rõ ràng họ có ý định “cứu các linh hồn” qua phép rửa, nhưng họ cũng làm thế với mục đích giúp cho việc kiểm soát các vùng đất mới chinh phục được dễ dàng hơn.

Trước khi tôi đáp tàu đi Philippines để làm công tác giảng dạy và truyền giáo, tôi đã đọc và nghiên cứu nhiều sách vở được gửi tới cho tôi về đề tài này. Các nhà chinh phục người Tây Ban Nha đã mang các linh mục và các giám mục theo với họ, được hậu thuẫn bởi triều đình, với lệnh truyền không úp mở rằng phải giáo hóa để dân bản địa biết qui phục và trung thành với hoàng đế Tây Ban Nha.

Mọi người dân bản địa đều được yêu cầu phải học tiếng Tây Ban Nha, thứ tiếng trở thành ngôn ngữ duy nhất sử dụng trong phụng vụ. Hơn nữa, những người bản xứ không thể mơ tưởng đến chức linh mục ngay cả dù họ có cha hay mẹ là người Tây Ban Nha. Một lý do vì sao không cho người bản xứ làm linh mục, đó là vì người ta cho rằng họ không có khả năng sống đời độc thân. Ở Châu Mỹ La Tinh, tình hình cũng tương tự như thế.

Nhiều trong số những linh mục nhập khẩu tỏ ra chẳng phải là những linh mục lý tưởng lắm. Người ta phải rùng mình khi đọc những gì mà sử gia Bartolomé de Las Casas đã viết về họ. Nhiều linh mục nhiệt tâm đối với tiền bạc và của cải không kém chi sự nhiệt tâm “cứu các linh hồn”.

Tuy nhiên, trong số những vị thừa sai ấy có một số linh mục rất khôn ngoan và dũng cảm, dấn thân thực sự  cho Tin Mừng và cho dân chúng mà các ngài có trách nhiệm phục vụ – như Thánh Phao-lô,  các ngài sẵn sàng trở nên mọi sự cho mọi người. Thế nhưng lý tưởng của các ngài và phần lớn những việc tốt lành mà các ngài cố gắng thực hiện đều một mức nào đó bị cản trở bởi những bối cảnh chính trị và văn hóa trong đó các ngài sống và làm việc. Đọc lại lịch sử Giáo Hội Philippines, tôi sửng sốt bởi biết bao linh mục nhập khẩu và được trả thù lao đã có nhãn quan rõ ràng và có can đảm để bênh vực những người dân bản xứ, nhất là người nghèo, trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân.

Khi phục vụ ở Phi Châu trong vài thập niên sau Công Đồng Vatican II, tôi đã học biết được rất nhiều về tính cách anh hùng của các nhà truyền giáo. Đi thăm nhiều nghĩa trang, tôi khám phá rằng rất nhiều linh mục được chôn tại đó là những chàng trai còn rất trẻ, đã chết chỉ sau vài năm sống và làm việc tại vùng đất nóng bức ấy – những con người trẻ ấy hoàn toàn ý thức về các nguy hiểm xảy đến cho họ, nhưng họ vẫn quảng đại tự nguyện đón nhận. Họ là những con người ra đi dấn thân mà không hề có một chút ý định nào nhằm giúp củng cố cho hệ thống thực dân của triều đình.

Chỉ sau giai đoạn phi thực dân hóa, Giáo Hội mới nhận ra rằng việc hợp tác với những đòi hỏi của hệ thống thực dân đã để lại những hậu quả nghiêm trọng và sâu rộng biết bao.

Tại hầu như mọi vùng ở Phi Châu, luật độc thân đã có những hệ quả tiêu cực – xét trong nhiều khía cạnh, nó cản trở không cho người ta hội nhập trọn vẹn vào nền văn hóa. Dĩ nhiên, lý do chính cũng bởi vì sau nhiều thời gian người ta vẫn thất bại không phát triển được một tầng lớp giáo sĩ bản địa. Tại nhiều bộ tộc Phi Châu ngày nay, đời sống độc thân đã hoàn toàn có thể, song tại nhiều bộ tộc khác – ít nhất là cho đến thời điểm hiện tại – độc thân vẫn còn là một cái gì mà người ta không thể hình dung được. Hơn nữa, việc nhập khẩu linh mục từ các bộ tộc khác là một sự sỉ nhục đối với lòng tự hào tự nhiên của họ.

Chỉ đến thế kỷ này, Giáo Hội mới tấn phong các giám mục Trung Hoa. Trước đây, những lý do chính chống lại việc ấy không nằm ở vấn đề độc thân nhưng đúng hơn nằm ở một mặc cảm tự tôn lì lợm của người Âu Châu. Ít nhất là người ta có ấn tượng như thế. May thay, thái độ tự tôn này đang biến đi dần. Có lần một thừa sai người Ý ở Nhật Bản nói với tôi: “Cám ơn Chúa, tôi phục vụ ở một xứ sở mà nền văn hóa của người dân bản xứ là cái chúng tôi không thể xem thường. Trái lại, phải nhìn nhận rằng có quá nhiều điều chúng tôi cần phải học hỏi từ dân tộc này.”

Cách đây bốn mươi năm, tôi nhớ mình có đọc trên tờ Osservatore Romano lời tuyên bố kinh khủng sau đây của một hồng y đầy quyền lực ở Roma: “Tiếng La Tinh phải được duy trì là ngôn ngữ của Giáo Hội, để giúp khai hóa các dân man di bằng nền văn hóa La tinh siêu đẳng.” Dĩ nhiên ngày nay chúng ta biết rằng một cái nhìn như thế hoàn toàn vô lý và hoàn toàn không thể hình dung được. Tuy nhiên, chúng ta phải mang lấy gánh nặng các hậu quả của hình thức kỳ thị này trong quá khứ.

Một thực tế hiện còn gây ngạc nhiên hôm nay, đó là do bởi nguyên tắc dứt khoát gắn kết chức linh mục trong “Nghi Lễ Latinh” với sự độc thân, nên phần đông người ta và các cộng đoàn ở Châu Mỹ Latinh, Châu Phi và nhiều nơi khác đã và vẫn đang còn trong tình trạng không có Thánh Lễ. Rõ ràng, đây chỉ là một trong những triệu chứng của một tình hình trục trặc, cần đến một cách nhìn táo bạo và mới mẻ. Sự tinh khôi của cảm nghiệm tâm linh về Thiên Chúa và năng lực giải phóng của Tin Mừng không thể bị ngăn chặn hay bưng bít bởi bất cứ hình thức nệ luật hay tôn thờ ngẫu tượng nào.

Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức (Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!