Étte
Chương:
01 02
03 04
05 06
07 08
09 10

Chương
10
Ca ngợi ông Moóc-đo-khai
1 Vua A-suê-rô bắt cư dân ở đất
liền cũng như ở hải đảo phải nộp thuế.2 Mọi sự việc diễn tả
uy quyền của vua, mọi chiến công của vua, bài tường thuật về chức vị cao
cả mà vua đã tặng phong cho ông Moóc-đo-khai, tất cả đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Mê-đi và Ba-tư đó
sao?
3 Quả thật ông Moóc-đo-khai người Do-thái, quan
đệ nhị của vua A-suê-rô, là nhân vật có uy thế lớn đối với người
Do-thái, và được đông đảo đồng bào của ông quý mến. Ông không ngừng mưu
cầu lợi ích cho dân ông và hằng chăm lo cho cả nòi giống được hưởng thái
bình.
3 a) Ông Moóc-đo-khai nói: "Các điều xảy ra trên
đây đều do bàn tay Thiên Chúa. (3b) Thật thế, khi tôi nhớ lại những gì
đã thấy trong giấc chiêm bao về các sự việc này, thì quả không có gì đã
bị bỏ sót: (3c) một con suối nhỏ đã thành sông; rồi có ánh sáng, có mặt
trời, có nước dồi dào. Ét-te là con sông ấy; vua đã cưới nàng và phong
làm hoàng hậu. (3d) Còn hai con rồng là tôi và Ha-man. (3đ) Các dân tộc
là những dân đã cấu kết với nhau nhằm huỷ diệt tên của người Do-thái;
(3e) còn dân của tôi là Ít-ra-en, những người đã kêu cầu Thiên Chúa và
đã được cứu thoát. Đức Chúa đã cứu dân Người, Đức Chúa đã giải thoát
chúng tôi khỏi tất cả những tai hoạ ấy. Thiên Chúa đã làm những điềm
thiêng dấu lạ lớn lao chưa từng xảy ra nơi các dân tộc. (3g) Vì thế,
Người đã làm ra hai số phận: một dành cho dân Thiên Chúa, và một dành
cho mọi dân tộc. (3h) Hai số phận ấy đã được thể hiện cho mọi dân tộc
vào đúng giờ, đúng buổi, đúng ngày Thiên Chúa đã ấn định. (3i) Và Thiên
Chúa đã nhớ đến dân Người, đã trả lại quyền lợi chính đáng cho dân Người
chọn làm gia nghiệp. (3k) Đối với họ, qua mọi thế hệ và cho đến muôn
đời, những ngày ấy trong tháng A-đa, tức là ngày mười bốn và ngày mười
lăm, sẽ là những ngày hội đầy hân hoan vui sướng trước nhan Thiên Chúa,
trong dân của Người là Ít-ra-en.
Lời ghi chú về bản dịch Hy-lạp
3 l) Năm thứ tư, triều đại vua
Pơ-tô-lê-mai và bà Cơ-lê-ô-pát, ông Đô-xi-thê xưng mình là tư tế và thầy
Lê-vi cùng với con ông là Pơ-tô-lê-mai, đã mang đến bức thư trên đây về
lễ Pu-rim. Các ông ấy nói: đây chính là bức thư đó, và người phiên dịch
là ông Ly-xi-ma-khô, con ông Pơ-tô-lê-mai, cư dân thành
Giê-ru-sa-lem.
