.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời Mở Đầu

Chương 1: Về Chính Việc Mạc Khải 4*

Chương 2: Sự Lưu Truyền Mạc Khải Của Thiên Chúa 18*

Chương 3: Ơn Linh Hứng Thánh Kinh và Việc Giải Thích Thánh Kinh

Chương 4: Cựu Ước

Chương 5: Tân Ước 37

Chương 6: Thánh Kinh Trong Đời Sống Giáo Hội 42

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Mạc Khải Của Thiên Chúa - Dei Verbum
Tác giả: CĐ Vatican II
CHƯƠNG 3: ƠN LINH HỨNG THÁNH KINH VÀ VIỆC GIẢI THÍCH THÁNH KINH

11. Ơn linh hứng và chân lý trong Thánh Kinh

Những gì Thiên Chúa mạc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần 29*. Thật vậy, Giáo Hội Mẹ thánh chúng ta, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các phần đoạn đều là sách thánh và được ghi vào bản thư quy Thánh Kinh: bởi lẽ được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần (x. Ga 20,31; 2 Tm 3,16; 2 Pr 1,19-21; 3,15-16), các sách ấy có tác giả là chính Thiên Chúa và được truyền lại cho chính Giáo Hội với tư cách đó1. Nhưng để viết ra các sách thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong tài năng và sức lực của họ2, để khi chính Ngài hành động trong họ và qua họ3, họ viết ra như những tác giả đích thật tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ những điều đó thôi.

Vì phải xem mọi lời tác giả được linh hứng, tức các thánh sử, viết ra, là những điều Chúa Thánh Thần xác quyết, nên phải tuyên xưng rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, chân lý 30* mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại nhằm cứu độ chúng ta5. Bởi vậy “tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3,16-17 bản hy-lạp).

 

12. Cách thức giải thích Thánh Kinh 31*

Tuy nhiên vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy6, nên để thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, nhà chú giải Thánh Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thật sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của các ngài.

Để tìm ra chủ ý của các thánh sử, giữa những phương pháp khác, cũng cần phải đến “văn thể” 32*. Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác. Hơn nữa, nhà chú giải còn có bổn phận tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp rõ rệt, thánh sử đã muốn diễn tả và thật sự đã diễn tả trong hoàn cảnh thời đại và văn hoá của các ngài, qua các lối văn được dùng trong thời đó7. Thật vậy, để hiểu đúng ý nghĩa tác giả thánh muốn khẳng định trong bản văn, chúng ta phải chú tâm đúng mức đến các cách thức tự nhiên cảm nghĩ, nói năng hoặc tường thuật, thường được dùng vào thời đại của thánh sử, cũng như các cách thức mà người thời ấy quen dùng khi giao tế với nhau8.

Nhưng bởi vì Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần, thì cũng phải được đọc và giải thích nhờ chính Thánh Thần9. Và để khám phá ra chính xác ý nghĩa của các bản văn thánh, cũng phải kỹ lưỡng xem xét đến nội dung và sự duy nhất của toàn thể Thánh Kinh, dựa trên Truyền Thống sống động của toàn thể Giáo Hội và sự suy loại đức tin 33*. Các nhà chú giải có nhiệm vụ dựa theo những quy tắc đó mà cố gắng hiểu thấu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu sắc hơn, ngõ hầu nhờ sự học hỏi có thể gọi là chuẩn bị đó, phán quyết của Giáo Hội được chín chắn. Quả vậy mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh cuối cùng đều phải lệ thuộc vào phán quyết của Giáo Hội, vì Giáo Hội đã nhận từ Thiên Chúa mệnh lệnh và nhiệm vụ  gìn giữ và giải thích lời Thiên Chúa10.

 

13. Sự “hạ cố” của Đức Khôn Ngoan

Vậy trong Thánh Kinh, tỏ hiện sự “hạ cố” kỳ diệu của Đức Khôn Ngoan vĩnh cửu, mà vẫn không làm tổn thương sự chân thật và thánh thiện của Thiên Chúa, “để chúng ta học biết lượng nhân từ khôn tả của Thiên Chúa và biết, do quan phòng săn sóc đến bản tính chúng ta, Ngài đã thích ứng lời nói của Ngài đến mức nào”11. Quả thế, các lời của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, đã trở nên tương tự với lời nói loài người, cũng như khi xưa Lời của Chúa Cha vĩnh cửu đã mặc lấy xác thịt yếu đuối của loài người, đã trở nên giống như loài người.

----------------------

29*– Trong chương này, Công đồng bàn về những điểm gay go nhất của Thánh Kinh: linh hứng, vô ngộ, chú giải.

Trước tiên là vấn đề linh hứng: lược đồ thứ nhất đề cập dài dòng về đề mục này, nhưng theo lối trình bày của các sách thần học nên bị giới hạn vì những tranh luận chưa ổn thoả. Với lập trường không nghiêng về luận đề này hay luận đề kia, Công đồng dạy:

a) Có linh hứng Thánh Kinh, nghĩa là có ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần theo hai nghĩa: mạc khải các chân lý (ví dụ cho các ngôn sứ) và tác động giúp viết thành văn bản để lưu truyền, đồng thời bảo đảm kết quả.

b) Linh hứng ảnh hưởng đến toàn bản chính lục, bởi lẽ một cuốn sách được liệt kê vào bản chính lục là vì nó được linh hứng. Bản văn lập lại giáo thuyết của Vatican I, và thêm rằng giáo thuyết về linh hứng Thánh Kinh là di sản của các Tông đồ (đức tin tông truyền).

c) Liên quan giữa các thánh sử và Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng: Thiên Chúa là tác giả, còn thánh sử là người viết sách; người ta tránh gọi các thánh sử là “dụng cụ”, vì như vậy có vẻ quá thụ động. Cũng vậy, người ta sẽ tránh hiểu Thiên Chúa như tác giả “chính” mà thích nói Ngài là tác giả “siêu việt”. Thiên Chúa không là “thánh sử” nhưng Ngài dùng con người dầu vẫn để con người hoàn toàn tự do và tự phát (với lỗi lầm của họ). Đây là nền tảng của việc phê bình Thánh Kinh.

30*– Kết quả của ơn linh hứng là chân lý của Thánh Kinh. Trước kia là Lược đồ 2 chỉ nói vô ngộ, sau đó bản thảo thứ ba lại thêm: vô ngộ và chân lý; trong bản thảo thứ tư, Uỷ Ban thêm tính từ “cứu độ” vào danh từ “ chân lý”. Điều này gây nên một cuộc tranh luận rộng lớn và sôi nổi, vì người ta cho rằng như thế sẽ hạn chế tính cách vô ngộ của Thánh Kinh vào những điều siêu nhiên và đi ngược lại giáo huấn của các Đức Giáo hoàng gần đây. Uỷ Ban chấp nhận đề nghị sửa đổi của 73 Nghị Phụ: “nhằm cứu độ chúng ta” trong khi nhấn mạnh là linh hứng không bị giới hạn vào một phần đoạn nào của Thánh Kinh. Nhưng câu này chỉ rõ đặc tính riêng biệt của chân lý Thánh Kinh, nghĩa là chiều hướng để hiểu đúng những xác quyết của Thánh Kinh. Chân lý Thánh Kinh chứa đựng trong lời xác quyết hay lời giáo huấn của các tác giả chứ không trong những từ ngữ. Những giáo huấn ấy không bị giới hạn trong “đức tin và luân lý” bởi vì “chân lý cứu độ” cũng bao gồm những sự kiện lịch sử. Nên lưu ý là bản văn không nói: “những chân lý”, nhưng nói: “chân lý” theo số ít ở đây hiểu theo nghĩa Thánh Kinh nghĩa là hàm chứa sự biểu lộ của Thiên Chúa chân thật (chứ không theo nghĩa duy trí). Chân lý lịch sử của Thánh Kinh không nhất thiết hệ tại việc dựng lại các sự kiện theo thời gian và hoàn cảnh xã hội, nhưng hệ tại việc giải thích các sự kiện, nghĩa là dưới phương tiện những sự kiện đó diễn tả mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa.

31*– Công đồng dạy rằng việc giải thích rất cần thiết để hiểu Thánh Kinh. Khoa giải thích tìm tòi những phương pháp văn chương của thánh sử để khám phá điều thánh sử muốn dạy. Thiên Chúa muốn dạy cũng điều đó và có lẽ còn hơn nữa: vấn đề nghĩa thâm sâu (sensus plenior) mà Uỷ Ban không muốn quyết đoán.

32*– Đoạn này bàn về việc phê bình Thánh Kinh nghĩa là nhằm phân tích “khía cạnh nhân loại” của Thánh Kinh: văn thể, phạm trù tri thức, hoàn cảnh lịch sử v.v... như trong bất cứ tác phẩm văn chương nào. Tầm quan trọng của “văn loại” được đặt lên hàng đầu, dầu không kê khai đầy đủ. Ta nên lưu ý điểm này: phải công nhận sự hiện hữu của nhiều loại lịch sử khác nhau, vì trong các cuốn sách của Thánh Kinh, quan niệm lịch sử không có cùng một nghĩa như nhau. Ý tưởng sâu xa được hiểu ngầm ở đây là Lời Chúa đã trở thành lời thật sự của con người, nghĩa là lời nhập thể, như trình bày ở số 13.

33*– Khoa học chưa đủ cho việc chú giải Kitô giáo. Cần phải có đức tin. Nhà chú giải cũng phải được hướng dẫn bởi cùng một Thánh Thần đã linh hứng các thánh sử. Tiếp đến, phải đặt mỗi cuốn sách trong toàn bộ Thánh Kinh vì các sách không có cùng một giá trị như nhau. Phải nhớ rằng Mạc khải còn tiến triển: Tân Ước soi sáng Cựu Ước và Thánh Truyền của Giáo Hội lại soi sáng Tân Ước. Sau cùng, việc chú giải và Huấn Quyền phải cộng tác theo cùng một mục đích là giúp hiểu biết thêm về Mạc khải.

 

1 Xem CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 2: DZ 1787 (3006).

– UỶ BAN KINH THÁNH GIÁO HOÀNG, Sắc lệnh ngày 18-6-1915: DZ 2180 (3629); EB 420.

– THÁNH BỘ THÁNH VU, Epist. 22-12-1923: EB 499

2 Xem Piô XII, Tđ. Divino afftante Spiritu, 30-9-1943: AAS 35 (1943), tr. 314; EB 556

3 Trong và qua họ: xem Dt 1, 1 và 4, 7 (trong); 2 Sm 23,2; Mt 1,22 và nhiều nơi khác (qua); CĐ VAT. I: schema de doctr. cath, ghi chú số 9: Coll. Lac. VII, 522.

4 LÊÔ XIII, Tđ. Providentissimus Deus, 18-11-1893: DZ 1952 (3293); EB 125.

5 Xem T. ÂUTINH, De Gen. ad litt. 2, 9, 20: PL 34,270-271; CSEL 28, 1, 46-47 và Epist. 82, 3: PL 33, 277; CSEL 34, 2, 354. – T. TÔMA, De Ver. q. 12, a. 2, c. – CĐ TRIĐEN., khoá 4, De canonicis Scripturis: DZ 783 (1501) – LÊÔ XIII, Tđ. Providentissimus Deus: EB 121, 124, 126-127. PIÔ XII, Tđ. Divino afflante Spiritu: EB 539.

6 T. ÂUTINH, De Civ. Dei, XVII, 6, 2: PL 41, 537; CSEL 40, 2, 228.

7 T. ÂUTINH, De Doctr. Christ. III. 18, 26: PL. 34, 75-76: CSEL 80, 95.

8 PIÔ XII, nt: DZ 2294 (3829-3820); EB 557-562.

9 Xem BÊNÊĐÍCHTÔ XV, Tđ. Spiritus Paraclitus, 15-9-1920: EB 469. – T. GIÊRÔNIMÔ, In Gal 5,19-21: PL 26, 417A.

10 Xem CĐ. VAT, I, Hiến chế Tín lý Đức tin Công Giáo, ch. 2: DZ 1788 (3007)

11 T. GIOAN KIM KHẨU, In Gen. 3, 8 (hom. 17, 1): PG 53, 134. – “Thích ứng” tiếng hy-lạp là synkatabasis.

Tác giả: CĐ Vatican II

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!