.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời Mở Đầu

Chương 1: Về Chính Việc Mạc Khải 4*

Chương 2: Sự Lưu Truyền Mạc Khải Của Thiên Chúa 18*

Chương 3: Ơn Linh Hứng Thánh Kinh và Việc Giải Thích Thánh Kinh

Chương 4: Cựu Ước

Chương 5: Tân Ước 37

Chương 6: Thánh Kinh Trong Đời Sống Giáo Hội 42

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Mạc Khải Của Thiên Chúa - Dei Verbum
Tác giả: CĐ Vatican II
CHƯƠNG 2: SỰ LƯU TRUYỀN MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA 18*

7. Các Tông đồ và những người kế vị loan truyền Phúc Âm

Những gì Thiên Chúa đã mạc khải để cứu rỗi muôn dân, Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ 19*. Bởi thế Chúa Kitô, nơi Người, Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn mạc khải (x. 2 Cr 1,20 và 3,16-4,6), đã truyền dạy các Tông đồ rao giảng cho mọi người Phúc Âm đã được hứa trước qua miệng các Ngôn sứ, và được chính Người thực hiện và công bố; các ngài rao giảng Phúc Âm như nguồn mọi chân lý cứu độ và luật lệ luân lý1, đồng thời thông ban cho họ các ân huệ của Thiên Chúa. Việc này đã được thực hiện cách trung thành, một phần do các Tông đồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các định chế, các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Chúa Kitô khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý; một phần do chính các ngài và những người phụ tá các ngài đã viết lại20* sứ điệp cứu độ dưới sự linh ứng của cùng một Chúa Thánh Thần2.

Nhưng để Phúc Âm được giữ gìn toàn vẹn và sống động mãi trong Giáo Hội 21*, các Tông đồ đã để lại những người kế vị là các giám mục và “trao lại cho họ quyền giáo huấn của các ngài”3. Bởi vậy, Thánh Truyền này cùng với Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, là như tấm gương mà Giáo Hội lữ thứ trên trần gian nhìn vào để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, do bởi Ngài, Giáo Hội nhận lãnh tất cả, cho đến khi được dẫn tới để nhìn thấy Ngài diện đối diện, Ngài thế nào Giáo Hội sẽ thấy như vạy (x. 1 Ga 3,2).

8. Thánh Truyền 22*

Vì vậy, những lời giảng dạy của các Tông đồ được đặc biệt ghi lại trong các sách linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế. Do đó, khi truyền lại những gì chính mình đã nhận lãnh, các Tông đồ khuyến cáo các tín hữu giữ gìn các truyền thống họ đã học biết qua lời chỉ giáo hay bằng thư từ (x. 2 Tx 2,15), và chiến đấu để bảo vệ đức tin chỉ được truyền đạt cho họ một lần mà thôi (Gđ 3)4. Và những điều các Tông đồ truyền lại bao gồm tất cả những gì góp phần giúp Dân Thiên Chúa sống một đời thánh thiện và làm tăng triển đức tin. Như vậy, Giáo Hội qua giáo lý, đời sống và việc phượng tự của mình, bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin. 23*

Thánh Truyền do các Tông đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần5. Thật vậy, các sự việc và các lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, hoặc nhờ các tín hữu chiêm ngưỡng và học hỏi, khi đã ghi nhớ các điều đó trong lòng (x. Lc 2,19 và 51), hoặc nhờ họ đã thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý do việc kế vị trong chức giám mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ, Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi Lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội. 24*

Lời các thánh Giáo Phụ chứng thực sự có mặt sống động của Thánh Truyền; và sự phong phú của Thánh Truyền đã thâm nhập vào thực hành và đời sống của Giáo Hội, một Giáo Hội luôn tin và cầu nguyện. Nhờ Thánh Truyền ấy, Giáo Hội biết được toàn bộ thư quy Thánh Kinh và cũng nhờ Thánh Truyền, Thánh Kinh được hiểu biết thấu đáo hơn, cũng như Thánh Truyền đã làm cho Thánh Kinh không ngừng tác động. Như vậy, Thiên Chúa, Đấng xưa đã phán dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình; và Thánh Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Phúc Âm vang dội trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội làm vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho Lời Chúa Kitô tràn ngập lòng họ (x. Cl 3,16). 25*

 

9. Tương quan giữa Thánh Truyền và Thánh Kinh

Vậy Thánh Truyền và Thánh Kinh được nối kết và thông giao với nhau cách chặt chẽ. Thật thế, do cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch thần linh, có thể nói cả hai kết hợp thành một và cùng quy hướng về một mục đích. Quả vậy, Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói, xét theo tư cách được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần; còn Thánh Truyền thì truyền đạt nguyên vẹn cho các đấng kế vị các Tông đồ Lời Thiên Chúa đã được Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần ký thác cho các Tông đồ, để các đấng kế vị đó, nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng, trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến Lời ấy bằng việc rao giảng. Do đó, Giáo Hội không chỉ nhờ Thánh Kinh mà kín múc được niềm xác tín về mọi điều mạc khải. Chính vì thế cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn trọng với một lòng quý mến và thành kính như nhau6. 26*

 

10. Tương quan giữa Thánh Truyền, Thánh Kinh, Dân Chúa và Huấn Quyền

Thánh Truyền và Thánh Kinh làm thành một kho tàng thánh thiêng duy nhất  lưu trữ Lời Chúa, đã được ký thác cho Giáo Hội. Khi gắn bó với kho tàng ấy, toàn thể dân thánh, quy tụ quanh các vị chủ chăn27*, chuyên cần với giáo huấn của các Tông đồ, với tình hiệp thông, với việc bẻ bánh và kinh nguyện (x. Cv 2,42, bản hy-lạp), nên giữa các thủ lãnh và các tín hữu có sự nhất trí lạ lùng trong việc nắm giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin đã được truyền lại7.

Còn nhiệm vụ chính thức giải thích lời Thiên Chúa đã được ghi chép hay truyền lại 8, nhiệm vụ này đã được uỷ thác cho một mình Huấn Quyền sống động của Giáo Hội 9, quyền này được thi hành nhân danh Chúa Giêsu Kitô 28*. Tuy nhiên, Huấn Quyền này không ở trên Lời Chúa, nhưng phục vụ Lời Chúa vì chỉ giảng dạy những điều đã được truyền lại; bởi vì do mệnh lệnh của Thiên Chúa và nhờ ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Huấn Quyền kính mến lắng nghe, thành kính gìn giữ và trung thành trình bày Lời đó, đồng thời từ kho tàng đức tin duy nhất ấy, Huấn Quyền kín múc ra  tất cả mọi điều mà đề nghị cho giáo dân tin như là những điều đã được Thiên Chúa mạc khải.

Như thế, đã rõ là do ý định hết sức khôn ngoan của Thiên Chúa, Thánh Truyền, Thánh Kinh và Huấn Quyền của Giáo Hội được nối kết và liên đới với nhau đến nỗi không một cái nào có thể đứng vững một mình không cần hai cái kia; và dưới tác động của một Chúa Thánh Thần duy nhất, cả ba cùng góp phần hữu hiệu vào việc cứu độ các linh hồn, mỗi bên theo phương cách riêng.

-------------------------

18*– Trong bản thảo thứ hai, chương I mang tựa đề: “Về Lời Chúa được mạc khải” và gồm bốn số. Trong bản thảo thứ ba, người ta thêm số 8 và rồi chương II này. Nhiều người đã phê bình tựa đề, vì Mạc khải – theo họ nói – là lời mạc khải hơn là lời được mạc khải. Tựa đề hiện tại thích hợp với nội dung hơn: “Chỗ này chúng tôi miêu tả việc lưu truyền Mạc khải cách tổng quát, nhưng chúng tôi quan tâm đặc biệt đến truyền thống sống động vì nó có liên quan trực tiếp với Mạc khải được lưu truyền và nó vẫn tiếp tục sau khi Thánh Kinh đã được viết. Như thế, chương này là một bài nhập đề khá hay cho những chương nói về Thánh Kinh sau này” (Relatio, tr. 19).

Một số các Nghị Phụ muốn nhấn mạnh trên Thánh Truyền nên đòi phải có một đề mục về điểm này. “Phần đông các nghị phụ này muốn đặt Thánh Truyền lên trước Thánh Kinh, vì theo bản tính và thời gian, Thánh Truyền có trước Thánh Kinh... Các Nghị Phụ khác muốn xác nhận Thánh Truyền là một nguồn Mạc khải hoàn toàn tách biệt khỏi Thánh Kinh (Relatio, nt.,). Còn Uỷ Ban lại muốn tránh tất cả những vấn đề đang trong vòng tranh luận. Thế là đề mục Mạc khải đã trở thành nóng bỏng hơn cả đề mục cộng đoàn tính của giám mục. Vấn đề ở đây là di sản của bao thế kỷ tranh luận chống Tin Lành. Chúng ta phải vượt qua vấn đề đó, nhưng không phải là việc dễ dàng, nhất là vì chúng lại xa lạ với Đông phương và các Giáo Hội tân lập. Đây là lời của Đức giám mục Edelly trong một cuộc phát biểu ý kiến: “Phải thoát ra khỏi vấn đề sau Công đồng Triđentinô... Đặt mình vào trong trung tâm mầu nhiệm Giáo Hội là một liều thuốc công hiệu. Phải loại trừ tâm thức quá pháp lý và duy danh mà những người Cải cách và La-tinh tự đóng khung vào. Từ thời Trung Cổ, chính tâm thức này đã đối nghịch “việc truyền phép” với “lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần”. Và chính tâm thức này mới đây đã trình bày “quyền tối thượng” và “cộng đoàn tính” như hai thực thể tách biệt. Cũng chính tâm thức này đã đặt Thánh Kinh và Thánh Truyền song song nhau... Thánh Kinh là một thực tại phụng vụ và ngôn sứ. Các Giáo hội Đông Phương coi Thánh Kinh là một “việc truyền phép” lịch sử cứu độ dưới “hình thức” tiếng nói con người, nhưng không tách biệt khỏi việc truyền phép Mình Thánh Chúa trong đó tất cả lịch sử được quy hợp trong Thánh Thể Chúa Kitô. “Việc truyền phép” này cần một “lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần” , đó chính là Thánh Truyền. Thánh Truyền là “lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần” của lịch sử cứu độ, là sự tỏ mình của Thánh Thần; bởi thế nếu thiếu lịch sử, Thánh Truyền sẽ không thể hiểu được và Thánh Kinh là những chữ chết. Tiếng Thánh Truyền không luôn có cùng một nghĩa, vì vậy Uỷ Ban đã cho biết cách chung là từ khoảng giữa số 8 (và những điều các Tông đồ truyền lại), tiếng “Thánh Truyền” phải hiểu theo nghĩa thụ động: thực thể hay chân lý được lưu truyền.

19*– Câu này nói lên ý hướng của toàn chương: Thiên Chúa muốn lưu truyền toàn thể Mạc khải, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, cho mọi thời đại. Các Tông đồ đã được lệnh truyền dạy tất cả những điều các ngài đã thu nhận nơi Chúa Kitô (Mt 28,20).

20*– Công đồng dạy về hai nguồn lưu truyền “Phúc Âm” trước hết theo chiều dọc: từ Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đến các tông đồ, sau đó theo chiều ngang: từ các Tông đồ đến Giáo Hội. Đoạn này nhấn mạnh đến giai đoạn đặc biệt là “thời các Thánh tông đồ”, gồm cả những “môn đệ của các tông đồ” vì họ đã viết một phần Tân Ước, ngay cả sau khi vị Tông đồ cuối cùng băng hà. Các phương tiện lưu truyền là lời giảng dạy và Thánh Kinh: cả hai phương tiện đều lưu truyền cùng một Mạc khải. Công đồng không muốn nói là trong lời giảng dạy chứa nhiều mạc khải hơn trong các lời nói mà cũng bằng gương sáng và các tổ chức. Thánh Truyền không phải chỉ là lời nói suông mà còn là những thực thể.

21*– Ở đây bàn về tính cách liên tục của Mạc khải sau thời các Tông đồ. Đề mục này được bản kỹ lưỡng trong Hiến chế Giáo Hội số 20 và 21. Ở đây Công đồng chỉ nhắc lại. Ở chỗ khác Công đồng cũng dạy rằng nhiệm vụ thiết yếu của các giám mục là lưu truyền mạc khải (x. GH 25a; GM 12a). Sự viên mãn của Mạc khải hiện hữu trong Giáo Hội, và chính nơi Giáo Hội, nhờ đức tin, ta gặp được Thiên Chúa, tức là khởi đầu việc hưởng nhan Chúa: có sự liên tục giữa Giáo Hội hiện tại và Giáo Hội cánh chung.

22*– Số này xuất hiện trong bản thảo thứ ba. Nhiều Nghị Phụ đòi Công đồng phải trực tiếp bàn đến Thánh Truyền, vì các lược đồ trước hầu như không nói gì đến.

23*– Đoạn này bàn về sự hiện hữu và bản tính của Thánh Truyền. Một Nghị Phụ muốn bản văn nói: “Các chân lý mà các Tông đồ đã mạc khải bằng miệng và không có trong Thánh Kinh, được lưu truyền cho chúng ta bằng Thánh Truyền”. Nhưng Uỷ Ban bác bỏ đề nghị trên, vì Uỷ Ban không muốn đặt vấn đề về tính cách đầy đủ chất liệu của Thánh Kinh và nội dung của Thánh Truyền. Chỉ có một điều không còn gì nghi ngờ là Thánh Truyền có nội dung rộng lớn hơn Thánh Kinh; bằng chứng là trường hợp bản chính lục và sự linh hứng của chính  Thánh Kinh. Như thế câu “lời giảng dạy của các Tông đồ” bao gồm tất cả mọi điều mà các Tông đồ đã lưu truyền bằng bất cứ cách nào. Và những điều đó nhờ linh hứng được chứa đựng “cách đặc biệt” trong Thánh Kinh (nghĩa là không phải chỉ trong Thánh Kinh).

24*– Thánh Truyền luôn linh động, gia tăng và tiến triển liên tục (không phải trong bản chất mà trong việc hiểu biết) và luôn giữ tính đồng nhất nguyên thuỷ của mình trong khi vẫn hướng về sự viên mãn của chân lý. Để chỉ “bản chất”, ta nói “tông truyền” thay vì “Thánh Truyền sống”. Nguồn gốc sự phát triển là: việc chiêm ngưỡng, nghiên cứu của các nhà thần học, ơn hiểu biết Chúa Thánh Thần ban và lời giảng dạy của hàng giáo phẩm. Ở đây người ta theo kiểu nói của Thánh Irênê mà không nêu danh tánh, vì các nguồn từ “đoàn sủng về chân lý” có thể có ba nghĩa: ơn ban chân lý mạc khải, ân sủng giúp chân thành với chân lý, và ơn giúp cắt nghĩa Mạc khải cách chân thật; ở đây theo nghĩa thứ ba.

25*– Các Giáo Phụ là những chứng nhân quan trọng nhất của Thánh Truyền, không phải chỉ vì các ngài sống gần thời của Tông đồ mà vì các ngài đã hệ thống hoá giáo thuyết, đến nỗi đã có thể truyền lại cho chúng ta theo những công thức mà chính các ngài đã hình thành.

26*– Thánh Truyền không phải chỉ là của Giáo Hội nhưng còn mang đặc tính thần linh như Thánh Kinh cả về nguồn gốc, nội dung và mục đích. Nội dung là xét theo phẩm, chứ Công đồng không bàn đến lượng, Ở đây, ta thấy có sự phân biệt vai trò của các Tông đồ, những người cấu tạo Thánh Truyền, và vai trò của các giám mục, những người bảo vệ Thánh Truyền. Câu: “Do đó, Giáo Hội không chỉ nhờ...” được Đức Giáo hoàng Phaolô VI ghi thêm vào phút chót. Nhiều người Tin Lành phản đối và cho rằng đó là một bước quay về thuyết “Hai nguồn”. Nhưng Uỷ Ban cắt nghĩa là câu trên không hề thay đổi ý nghĩa bản văn. Thật ra, 270 nghị phụ đã yêu cầu sửa đổi nghĩa đó (trong số đó có 111 nghị phụ thuộc nhóm đưa ra đề nghị tu chỉnh danh tiếng 40D). Được Đức Hồng y Bea khuyến khích, Uỷ Ban đã chấp nhận câu thứ 3 trong số 7 câu do Đức Giáo hoàng đề nghị, và nói rằng câu đó không ngăn trở những vấn đề đang được tranh luận.

27*– Đoạn này dạy rằng Mạc khải là gia sản của toàn thể Dân Chúa. Do đó,  tín hữu không thể thụ động đối với Lời mạc khải. Giáo thuyết này là một bước tiến sánh với Vatican I và Thông điệp Humani Generis. Dân Chúa sống đạo sẽ làm giàu Thánh Truyền và giải thích Lời Chúa.

28*– Huấn Quyền là thẩm quyền duy nhất được giải thích chính thức Mạc khải, quyền này do Chúa thiết lập và giữ vai trò phụng sự Lời Chúa và Dân Chúa. Quyền giáo huấn có thể là thông thường và ngoại thường, khả ngộ và bất khả ngộ. Về phương diện hợp nhất, lời xác quyết sau đây thật là lời tối quan trọng: Huấn Quyền phải tuân theo Lời Chúa, dầu quyền này gây khó khăn cho nhiều ki-tô hữu khác.

1 Xem Mt 28,19-20 và Mc 16,15. CĐ TRIĐEN., khoá 4, Sắc lệnh De canonicis scripturis: DZ 783 (1501).

2 Xem CĐ TRIĐEN., nt., – CĐ VAT. I, khoá 3, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 2: DZ 1787 (3006).

3 T. IRENÊ, Adv. Haer. III, 3, 1: PG 7, 848; HARVEY, 2, tr. 9.

4 Xem CĐ NIXÊ II: DZ 303 (602). – CĐ CONSTANTINOPLA IV, khoá 10, đ. 1: DZ 336 (650-652).

5 Xem CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 4: DZ 1800 (3020).

6 Xem CĐ TRIĐEN., Sắc lệnh De Canonicis Scripturis: DZ 783 (1501).

7 Xem PIÔ XII, Tông hiến Munificentissimus Deus, 1-11-1950: AAS 42 (1950), tr. 756, lấy lại lời Thánh CYPRIANÔ, Epist. 66, 8: CSEL 3, 2, tr. 733: “Giáo Hội là một dân hợp nhất với Linh mục và một đàn chiên liên kết với Chủ chăn”.

8 Xem CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 3: DZ 1792 (3011).

9 Xem PIÔ XII, Tđ. Humani generis, 12-8-1950: AAS 42 (1950), tr. 568-569: DZ 2314 (3886)

Tác giả: CĐ Vatican II

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!