.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời Mở Đầu

Chương 1: Về Chính Việc Mạc Khải 4*

Chương 2: Sự Lưu Truyền Mạc Khải Của Thiên Chúa 18*

Chương 3: Ơn Linh Hứng Thánh Kinh và Việc Giải Thích Thánh Kinh

Chương 4: Cựu Ước

Chương 5: Tân Ước 37

Chương 6: Thánh Kinh Trong Đời Sống Giáo Hội 42

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Mạc Khải Của Thiên Chúa - Dei Verbum
Tác giả: CĐ Vatican II
CHƯƠNG 1: VỀ CHÍNH VIỆC MẠC KHẢI 4*

2. Bản chất và đối tượng của Mạc khải

Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho biết mầu nhiệm của ý muốn Ngài (x. Ep 1,9); nhờ mầu nhiệm đó, loài người  có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Vây qua việc mạc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), do tình thương chan hòa của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và liên lạc với họ (x. Br 3,38) để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài. Nhiệm cục mạc khải này được thực hiện bằng các việc làm và lời nói có liên hệ mật thiết với nhau, theo nghĩa là các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu độ biểu lộ và củng cố cả giáo huấn lẫn những thực tại được diễn tả bởi các lời; còn các lời thì công bố các việc làm và làm sáng tỏ mầu nhiệm được chứa đựng trong  đó 5*. Nhưng nhờ mạc khải này, sự thật thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về công cuộc cứu độ con người nên chiếu sáng cho chúng ta trong Chúa Kitô, Đấng vừa là Trung gian vừa là sự viên mãn của toàn thể mạc khải2. 6*

 

3. Chuẩn bị Mạc khải Phúc Âm 7*

Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi Lời (x. Ga 1,3), không ngừng làm chứng cho loài người về chính mình nơi các thọ tạo (x. Rm 1,19-20) 8*; hơn nữa, vì muốn mở ra con đường cứu độ cao vời, ngay từ khởi thủy, Ngài đã tỏ mình ra cho nguyên tổ biết. Sau khi tổ tông sa ngã, bằng việc hứa ban ơn cứu chuộc, Ngài đã nâng họ dậy hướng tới niềm hy vọng cứu độ (x. St 3,15). Ngài đã không ngừng săn sóc nhân loại, để ban sự sống đời đời cho tất cả những ai tìm kiếm ơn cứu độ bằng cách kiên tâm làm việc lành (x. Rm 2,6-7) 9*. Khi đến thời gian đã định, Ngài đã gọi Abraham để làm cho ông thành một dân lớn (x. St 12,2-3), một dân tộc mà sau thời các Tổ phụ, Ngài đã dùng Môsê và các ngôn sứ mà dạy dỗ, để họ nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng, là Thẩm phán chí công, và để họ trông đợi Đấng Cứu Thế Ngài đã hứa ban. Như thế, qua các thời đại, Ngài đã dọn đường 10* cho Phúc Âm.

 

4. Chúa Kitô hoàn tất mạc khải 11*

Sau khi phán dạy nhiều lần nhiều cách qua các ngôn sứ, “vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (x. Dt 1,1-2) 12*. Thật vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Ga 1,1-18). Bởi vậy, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời thành xác phàm, “con người đã được sai đến với những con người”3, “đã nói lời của Thiên Chúa” (Ga 3,34) và hoàn thành công trình cứu độ Chúa Cha đã giao phó cho Người thực hiện (x. Ga 5,36; 17,4). Vì thế, chính Người, Đấng mà ai thấy là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9), bằng toàn thể sự hiện diện và tỏ mình ra bằng lời nói và việc làm, bằng các dấu chỉ và phép lạ, nhất là bằng cái chết và sự sống lại vinh quang từ trong kẻ chết, sau cùng bằng việc cử Thánh Thần chân lý đến, Người đã bổ túc và hoàn tất mạc khải và xác nhận mạc khải bằng một chứng cứ thần linh là Thiên Chúa ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi cho chúng ta sống lại để được sống đời đời.

Vậy nhiệm cục Kitô giáo sẽ không bao giờ mai một, vì là giao ước mới và vĩnh viễn. Chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công khai mới nào khác nữa trước ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta tỏ mình ra trong vinh quang (x. 1 Tm 6,14; Tt 2,13). 13*

 

5. Phải đón nhận Mạc khải bằng đức tin

Phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin” (Rm 16,26; x. Rm 1,5; 2 Cr 10,5-6) đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải. Nhờ sự vâng phục đó, con người tự do ký thác mình trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng cách “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mạc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí”4, và bằng cách tự ý ưng thuận mạc khải Ngài đã ban. Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho “mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý”5. Và để người ta hiểu biết mạc khải sâu xa thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng ban các ân huệ mà kiện toàn đức tin. 14*

 

6. Mạc khải và sự hiểu biết tự nhiên về Thiên Chúa

Bằng cách mạc khải 15*, Thiên Chúa đã muốn biểu lộ và thông ban chính mình Ngài cùng những ý định muôn đời của Ngài liên quan đến việc cứu độ nhân loại, “nghĩa là cho người ta được tham dự vào các của cải của Thiên Chúa hoàn toàn vượt quá trí hiểu loài người”6. 16*

Thánh Công đồng tuyên xưng rằng “con người có thể nhận biết Thiên Chúa,  nguyên lý và cứu cánh mọi sự cách chắc chắn , nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí suy luận từ các thọ tạo” (x. Rm 1,20). Nhưng Công đồng cũng dạy rằng phải nhờ Thiên Chúa mạc khải, mới có “điều này là, tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa, tự chúng vốn không vượt quá khả năng lý trí, trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, con người có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn và không lẫn lộn sai lầm”7. 17*

-------------

4*– Chương này xuất hiện ở trong lược đồ thứ ba. Trong các lược đồ trước, lời mở đầu chỉ bàn sơ qua về vài khía cạnh như “sự cần thiết và đối tượng của mạc khải” (số 1), “Mạc khải tiệm tiến” (số 2) v.v... Nhưng nhiều Nghị Phụ đòi bàn về chính việc Mạc khải, vì Mạc khải chứa đựng không những các chân lý về Thiên Chúa mà cả sự kiện Thiên Chúa tự mạc khải. Trong chương này, Công đồng đã muốn trình bày Mạc khải dưới cái nhìn của con người để thích ứng hơn với những đòi hỏi của con người thời nay. Phải xem xét trọn giáo thuyết này dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa phó mình cho con người ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Bố cục của chương này như sau: số 2: sự kiện Chúa phó mình và từ đó tự mạc khải; số 3 và 4: các giai đoạn Mạc khải và sự hoàn thành trong Chúa Kitô; số 5: thái độ ở con người để tiếp nhận mạc khải; số 6 các chân lý Mạc khải.

5*– Nền thần học Công giáo đã thường coi Mạc khải như một lời nói; còn các hoạt động của  Thiên Chúa bị liệt vào hàng rất phụ thuộc. Công đồng lại muốn trình bày là Thiên Chúa tự mạc khải trước tiên bằng “hành động” (gesta) (không bằng việc làm (facta) vì việc làm có vẻ một tác động vật chất hơn). Ở đây, chữ “hoạt động” còn có nghĩa là những biến cố do một người gây nên; trong trường hợp này, người ấy chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa tự mạc khải bằng cách hoạt động phù trợ dân Ngài, thăm viếng bạn hữu (Abraham, Môsê) và bằng các phép lạ (ví dụ Chúa Kitô) v.v...

Trước đó, số 2 này mang tựa đề: “Sự cần thiết của Mạc khải”, sau đổi thành “Bản tính và đối tượng”. Chúng ta thấy Mạc khải phát xuất không do “sự khôn ngoan và lòng nhân lành của Thiên Chúa” như Vatican I đã nói (Dz 1785/3004) nhưng do “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan”. Đối tượng là chính Thiên Chúa và Nhiệm cuộc cứu rỗi của Ngài. Ở đây Công đồng dùng tiếng “bí tích” để nói lên dấu chỉ và phương tiện, lời nói và hành động (x. GH I). Mạc khải là ơn hoàn toàn nhưng-không của tình yêu Thiên Chúa, tỏ bày cho các “bạn hữu” như trong một cuộc đối thoại, nghĩa là không những nói mà còn sống chung nữa.

6*– Câu này không thấy trong những lần soạn thảo trước, sau được thêm vào do đề nghị của nhiều Nghị Phụ. Vấn đề quan trọng là phải xem Chúa Kitô là trung gian duy nhất của Mạc khải vì Người là Lời mà Chúa Cha nói với chúng ta, và là sự viên mãn vì trong Người, Chúa Cha nói với chúng ta tất cả mọi sự. Vì vậy Mạc khải có Kitô tính.

7*– Đề mục tổng quát của đoạn này là sự trông chờ Mạc khải của Chúa Kitô. Mạc khải này thể hiện từng giai đoạn, ta có thể gọi là Mạc khải qua vũ trụ, Mạc khải sơ khai và Mạc khải trong lịch sử.

8*– Bản văn xác nhận sự kiện “Mạc khải qua vũ trụ” hay qua “thọ tạo” theo Thư gửi tín hữu Rôma 1,19-20. Nhưng bản văn phúc trình không muốn giải quyết vấn nạn là trong thực tế Thiên Chúa có ban ơn để người ta có thể nhận biết Chúa qua thọ tạo hay không (Relatio đính kèm lược đồ III, 1964, tr. 11, 3 A). Thiên Chúa mạc khải khi tạo dựng; nhưng nên chú ý là bản văn nói “Chúa tạo dựng” chứ không nói “Chúa đã tạo dựng” để chỉ rõ là tất cả tạo vật luôn luôn tùy thuộc vào Đấng Tạo Hoá, dầu cả trong giả thuyết tiến hoá. Mọi người đều có thể thấy nơi thọ tạo bằng chứng sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chính đây là nền móng cho thần học của các tôn giáo ngoài Kitô giáo.

9*– “Mạc khải sơ khai” được trình bày trong tầm mức siêu nhiên. Bản văn loại bỏ vấn đề độc tổ thuyết hay đa tổ thuyết, mà chỉ muốn nói là Thiên Chúa đã tỏ mình cho con người (không nói bằng cách nào), cũng như chỉ muốn nói là Thiên Chúa đã luôn luôn cứu thoát con người, và tình trạng này vẫn có giá trị ngay cả bây giờ (xem GH 16).

10*– “Mạc khải trong lịch sử” bắt đầu với Abraham. Công đồng đã muốn nêu lên mối liên lạc giữa việc tuyển chọn và Mạc khải. Thiên Chúa được gọi là “Cha”, nhưng các chữ “của mọi người” lại bị loại bỏ vì trong Cựu Ước phổ quát tính chưa rõ ràng lắm. Cựu Ước được coi như là sự “chuẩn bị” cho Phúc Âm để nói lên ý tưởng Mạc khải trong Cựu Ước còn bất toàn và có liên quan đến Mạc khải của Chúa Kitô.

11* – Số này đáp ứng số 2: Mạc khải được thể hiện bằng hành động và ngôn từ. Chúa Kitô vừa là biến cố vừa là Lời của Thiên Chúa. Có hai đoạn: đoạn thứ nhất cắt nghĩa tại sao Chúa Kitô đem lại cho chúng ta Mạc khải viên mãn; đoạn hai nói Mạc khải này là tối hậu và sẽ không còn mạc khải nào khác nữa.

12*– Công đồng đánh dấu sự liên tục và tương phản giữa Mạc khải của Chúa Kitô với những gì xảy ra trước. Một đối với nhiều, như toàn thể đối với phân tán. Nhập Thể là cuộc Mạc khải vĩ đại của Thiên Chúa. Vì vậy trước tiên phải xác định chân lý Nhập Thể, bản tính nhân loại thật sự của Chúa Kitô, trong đó ta “thấy” Chúa (x. Ga 14,9) là lịch sử thật của Người, “lời nói và việc làm”. Các phép lạ không phải chỉ là sự “xác nhận” Mạc khải, nhưng là chính Mạc khải: vì chính Chúa Kitô tỏ mình qua phép lạ.

13*– Theo ý tưởng của thư gửi tín hữu Do-thái, Mạc khải cũng như chức linh mục của Chúa Kitô phải là độc nhất và vĩnh cửu. Một vài nghị phụ muốn nói là “vì Mạc khải chấm dứt với các tông đồ”, nhưng Uỷ Ban bác bỏ ý kiến trên “vì đó là một lời giải thích đang được bàn cãi”. Lý do sâu xa: vì Chúa Kitô là sự viên mãn và như vậy hoàn tất Mạc khải, nên không còn gì vượt trên sự viên mãn nữa. Nhưng cuộc Mạc khải còn chờ sự vinh quang của ngày Quang Lâm. Còn vấn đề tiến triển: không phải tiến triển trong Mạc khải, nhưng tiến triển chính trong việc chúng ta hiểu và thực hành Phúc Âm; đó là công việc của Chúa Thánh Thần, Đấng không nói sự gì mới lạ nhưng làm chứng về Chúa Kitô (x. Ga 16,14).

14* – Trong số này, Công đồng trình bày lời đáp của con người đối với Thiên Chúa mạc khải: đó là đức tin, nhưng đức tin được hiểu dưới phương diện nhân bản, như một cuộc “đối thoại cứu độ” (Ecclesiam Suam, ngày 6-8-1964, số 72-79). Công đồng cũng nhận định những khía cạnh của hành vi đức tin: tự do, thuộc lý trí, thuộc ý chí, không thể có nếu không có ơn Chúa… Kiểu nói “vâng phục bằng đức tin” không được trình bày như một đòi buộc luân lý suông nhưng như là một đòi hỏi chính yếu của mối liên hệ mà Thiên Chúa mạc khải nối kết với con người. Trong hành vi đức tin, con người dấn thân toàn diện chứ không phải chỉ bằng lý trí. Ở đây bàn đến “đức tin đã hình thành” bao gồm cả đức cậy và đức mến, như ta có thể phỏng đoán theo những câu trích Thánh Kinh. Nhưng Uỷ Ban cắt nghĩa thêm: “Đức tin chưa hình thành” cũng là đức tin và cũng cần ơn Chúa Thánh Thần. Đức tin luôn luôn lớn mạnh dưới tác động cũng của chính Chúa Thánh Thần.

15* – Trong số này, Công đồng bàn về các chân lý được mạc khải, trước hết là các chân lý siêu nhiên, rồi đến các chân lý tự nhiên. Công đồng nói theo Vatican I. Nhưng thứ tự ở Vatican I là: a) tri thức tự nhiên về những chân lý tự nhiên, b) tri thức những chân lý tự nhiên nhờ Mạc khải, c) tri thức chân lý siêu nhiên nhờ Mạc khải. Đang khi đó thứ tự ở đây lại là c-a-b: nghĩa là theo một viển tượng Kinh Thánh và quy về Thiên Chúa hơn.

16* – Đoạn này nói lên đối tượng riêng biệt của Mạc khải, nghĩa là đối tượng mà chúng ta cần được mạc khải: chính Thiên Chúa và những ý định cứu độ của Ngài (x. Relatio, tr. 9, 5). Mạc khải này không phải chỉ là một sự thông đạt kiến thức nhưng cũng có mục đích cứu độ con người nghĩa là thông phần vào đời sống Thiên Chúa.

17*– Phần thứ hai của số 6 lặp lại giáo thuyết của Công đồng Vatican I về việc nhận biết Thiên Chúa bằng lý trí, nhưng Công đồng dùng những từ ngữ rất mạnh để chống lại thuyết vô thần. Nhưng chữ “tuyên xưng” và “dạy” ở phần này nói lên một tín điều. Con người thật sự có thể nhận biết Thiên Chúa nhưng họ không thể không sai lầm nếu Thiên Chúa không giúp đỡ. Lịch sử minh chứng rằng con người luôn luôn tìm kiếm Thiên Chúa nhưng không bao giờ thoát khỏi lầm lẫn; và trong thực tế, ảnh hưởng của tội lỗi hình như đã làm cho thế giới thường trở thành một chướng ngại vật. Tuy nhiên, trong “nhiệm cuộc” cứu độ chúng ta đang sống, một tri thức hoàn toàn tự nhiên chỉ là một tư tưởng trừu tượng, vì ơn Chúa hiện diện khắp mọi nơi.

2 Xem Mt 11,27; Ga 1,14 và 17; 14,6; 17,1-3; 2 Cr 3,16 và 4,6; Ep 1,3-14.

3 Epist. ad Diognetum, 7, 4: FUNK, Patres Apostolici, 1, 403.

4 CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 3: DZ 1789 (3008).

5 CĐ ORANGE II, đ. 7: DZ 180 (377). – CĐ VAT. I, nt., DZ 1791 (3010).

6 CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 2: DZ 1786 (3005).

7 nt.: DZ 1785-1986 (3004-3005).

Tác giả: CĐ Vatican II

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!