Chuyên mục:
TÔI TIN, CHÚNG TÔI TIN:
Lm. Giuse
Phan Quang Trí, O.Carm
Kính mời theo dõi video tại đây:
https://bit.ly/3oyVV8N
Nhân dịp bế mạc Năm Thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II ra tông thư kêu gọi toàn thể Hội Thánh tiến bước vào Thiên Niên Kỷ mới với một ý thức lớn lao hơn nữa về sứ mạng làm chứng cho tình yêu
Thiên Chúa. Trong thông điệp đó, Thánh Giáo
Hoàng đề cập đến Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu như là một chuyên gia về “Khoa học Tình Yêu” (scientia amoris) (ĐTC Gioan Phaolô II, Novo
Millennio Ineunte- Tông Thư Khởi Đầu Ngàn Năm Thứ Ba, số 42). Mười năm sau, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI nhắc lại
danh hiệu đặc biệt đó đồng thời ngài triển khai linh đạo thiêng liêng của vị
thánh trẻ Dòng Cát Minh trong cái nhìn đức tin (ĐTC Bênêdictô XVI, Bài Giáo Lý - Tiếp Kiến Chung Hàng Tuần,
Thứ Tư 06/04/2011). Khi khẳng định rằng “Khoa học
Đức Tin” và “Khoa học Tình
Yêu” luôn luôn song hành và bổ
túc cho nhau (ĐTC Bênêdictô XVI, Diễn từ đúc kết kỳ tĩnh tâm Giáo Triều
Rôma, Thứ Bảy 19/03/2011), Đức Bênêdictô XVI trước là bày tỏ sự ngưỡng mộ của cá nhân
ngài đối với Thánh nữ Têrêxa, sau là gián tiếp tuyên dương ngài như một vị thánh lỗi lạc về “Khoa học Đức
Tin” (scientia fidei). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đồng quan
điểm với hai vị tiền nhiệm, xác tín rằng đức tin Kitô Giáo không chỉ rao giảng
về tình yêu tuyệt hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng còn hướng lòng trí những kẻ tin tìm đến ánh sáng chân lý đích thật (Xem ĐTC Phanxicô, Thông Điệp Lumen Fidei – Ánh Sáng Đức Tin,
29/06/2013, số 32). Con người ta vốn dĩ phải cần đến cả đức tin và lý trí để đạt
đến chân lý. Têrêxa sống tròn đầy ý nghĩa đời chị trong ân sủng Thiên Chúa vì
chị biết tận dụng cả
con tim và khối óc để tìm kiếm Ngài.
Không còn nghi ngờ gì nữa, là bậc thầy
trong lĩnh vực “Khoa học Đức Mến” và “Khoa học Đức Tin”, cuộc đời và gương sáng của Thánh Têrêxa chứa đựng cả một
kho tàng những bài học vô giá. Kinh nghiệm nên thánh của chị giúp chúng ta tìm
ra hướng giải quyết và sự cảm thông nâng đỡ mỗi khi sóng gió ập đến thử thách đức
tin và lòng yêu mến của chúng ta. Ngoài ra, chúng ta tự hỏi, liệu rằng chị
thánh có điều gì nhắn nhủ với
chúng ta về nhân đức Trông Cậy hay không?
Tình hình dịch bệnh Covid-19 không
ngừng tấn công tàn bạo lên cộng đồng nhân loại khiến cho nhiều quốc gia phải đối
diện với những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, nhiều gia đình phải tan tác đổ vỡ,
nhiều mảnh đời gần như kiệt quệ tan nát, thậm chí nhiều người còn đánh mất cả
niềm tin và rơi vào tuyệt vọng tối tăm. Trong bối cảnh đó, lời kêu gọi “giữ vững niềm hy vọng” và “quảng đại tiếp lửa hy vọng” dường như đã trở thành thông điệp cấp
bách diễn tả đường hướng mục vụ của nhiều vị chủ chăn Hội Thánh, điển hình như
Đức Tổng Giám Mục Sài Gòn (Đức TGM
Giuse Nguyễn Năng, Thư Gửi Gia Đình Tổng Giáo Phận Sài Gòn, ngày 31/08/2021). Trong lúc chúng ta tưởng chừng mất
hết tất cả, Thiên Chúa vẫn không ngừng ban “mưa hoa hồng” giúp chúng ta đủ sức
vượt qua những thời khắc “dầu sôi lửa bỏng”. Têrêxa thành Lisieux chính là đóa
hoa thanh khiết mà Chúa ban tặng cho chúng ta. Mặc dù chị thánh lúc nào cũng tự
coi mình là một nụ hoa bé bỏng, không hương, không sắc, nhưng ngày nay chúng ta
có đầy đủ bằng chứng để nói rằng bông hoa ấy không chỉ đượm đầy sắc hương Đức Tin và Đức Ái và còn ngào ngạt cả
hương thơm Cậy Trông Phó Thác nữa. Để hiểu rõ hơn hành trình hy vọng
của Thánh Têrêxa, chúng ta hãy cùng nhau lược lại một số biến cố nổi bật trong
cuộc đời dương thế của ngài.
Đức Tin: Đảm bảo cho hành trình Hy Vọng
Dựa trên nền
tảng Thánh Kinh, cụ thể là những lời khuyên bảo của tác giả thư Hipri và tác giả
thư Titô, Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo định nghĩa Đức Cậy hay Đức Hy Vọng
“là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu
là vinh phúc của chúng ta, khi đặt lòng tin tưởng của chúng ta vào các lời hứa
của Chúa Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ
không vào sức mạnh riêng của chúng ta.” (GLHTCG,
1817). Mặc dù đây là câu định nghĩa về nhân đức Cậy nhưng nội dung thì đề
cập đến cả hai nhân đức đối thần còn lại, đức Tin và đức Mến. Ba nhân đức đối thần Tin – Cậy – Mến gắn bó chặt chẽ, hòa
quyện và bổ túc cho nhau.
Thông thường,
khi nói đến hy vọng là nói đến “khát khao” về một “tương lai tốt đẹp”. Nói đến cậy trông là nói đến “cậy nhờ” và “trông
mong”. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Chúng ta không thể giản lược nhân đức cậy
trông Kitô Giáo thành một đặc tính tâm lý tình cảm như “lạc quan yêu đời” chẳng
hạn. Đức Cậy là một nhân đức đối thần, và vì thế,
cũng giống như Đức Tin và Đức Mến, nhân đức này có nguồn gốc, động lực và đối
tượng không phải là bất cứ thứ gì chóng qua của đời này nhưng là chính Thiên
Chúa (x.
GLHTCG, 1840).
Quả thực
Thiên Chúa vì lòng xót thương hải hà mà ban cho chúng ta ân sủng để chúng ta có
khả năng tham dự tích cực vào sự sống thần linh của Ngài. Các nhân đức đối thần giúp chúng ta sống xứng hợp với phẩm
giá là “nghĩa tử”, là con Chúa (x. GLHTCG, 1812). Nước Trời và hạnh phúc
trường tồn là những điều thiện hảo đáng để chúng ta ước ao. Tuy không dễ gì đạt
được nhưng chúng ta vẫn cứ hy vọng những điều ấy, là vì sao? Là vì chúng ta tin
vào quyền năng của Cha trên trời, tin vào lời hứa của Chúa Kitô - Đấng đã thí mạng
để cứu chúng ta, và tin vào sức mạnh biến đổi của Chúa Thánh Thần (Tham khảo Thánh Tôma Aquinô, Tổng Luận Thần Học, II-II,
17.1). Niềm hy vọng Kitô Giáo đặt trên nền
tảng vững chắc là Lời Chúa và được củng cố nhờ mặc khải đức tin.
Những bản
văn tự thuật do Thánh Têrêxa để lại đã dệt nên một bản tình ca trác tuyệt. Bản
tình ca ấy đánh động hàng triệu tâm hồn là vì nó kể lại câu truyện của một đức
tin dạt dào tinh thần hy vọng. Khi nhận thấy mình đã trưởng thành đủ và đã trọn
đời tận hiến cho Chúa trong Dòng Cát Minh, Têrêxa nhìn lại chặng đường đã qua,
chị thấy mình dạn dĩ hơn nhiều, chủ động hơn trong tương quan với Chúa, nên chị
mạnh dạn công khai những tâm sự chị đã chôn kín từ lâu. Đối với chị, Chúa Giêsu là Chúa, là Mục Tử, là Cha, và đặc biệt nhất
là Hôn Phu. Chị biết mình được Chúa yêu chiều quan tâm, nên chị hoàn
toàn tin tưởng và phó thác. “Chúa nhân lành đã rất
cưng chiều con,” chị đã viết cho Mẹ Agnes de Jesus như thế, “con chỉ
muốn ghi lại những cảm nghĩ của con về những ơn lành Chúa nhân từ đã đoái
thương ban cho con… Khi nhìn lại, con thấy đời con ứng nghiệm đúng như lời
Thánh Vịnh 23: ‘Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi
không còn thiếu gì, … tôi không còn lo sợ nỗi gì’” (Tham khảo Truyện Một Tâm Hồn - Storia di un’anima,
Francois-Marie Lethel, OCD biên tập, Roma: Edizioni OCD, 2015, tr.41. Bài viết
sử dụng các trích dẫn từ bản tiếng Ý, từ đây sẽ viết tắt “TMTH”). Tin tưởng
vào quyền năng của Vị Mục Tử Nhân Lành, và lòng thương xót của Cha Trên Trời,
Têrêxa hoàn tất bản tình ca cuộc đời với trọn lòng biết ơn: “Tất cả là Hồng Ân.”
Khiêm Hạ: Biểu hiện của Hy Vọng
Lớn lên
trong gia đình đạo hạnh, Têrêxa không chỉ ý thức rất cao về đặc ân được “làm con Chúa” nhưng
còn nỗ lực hết sức để không phí phạm ân huệ Chúa
ban. Ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm “Truyện Một Tâm Hồn”,
chúng ta dễ dàng bắt gặp một Têrêxa khiêm tốn, vâng lời và nhất là một Têrêxa
vô cùng nhạy cảm trước khối ân tình bao la của Thiên Chúa. “Con viết những mẩu
truyện tâm hồn này… trong sự vâng phục một cách đơn sơ… Việc con đang làm đây
chẳng qua là xướng lên bài ca về Lòng Chúa Xót Thương… để ca ngợi những đặc ân
Chúa Giêsu đã ban xuống cho linh hồn con.” (TMTH,
tr.35 & 38)
Hoàn toàn không chút giả tạo, Têrêxa tự nhận
mình như một bông hoa dại bé nhỏ ẩn mình trong vườn của Chúa Giêsu. Têrêxa
không hề có ý phân bì hay trách móc, ngược lại, chị lấy làm mãn nguyện trước ơn
mặc khải Chúa thương ban. Mấy ai có được diễm phúc nhận ra chân lý cao siêu mà
Têrêxa đã đón nhận: Để làm vui lòng Chúa thì bất
cứ việc làm gì dù là lớn hay bé đều đáng được thi hành với một tình yêu lớn nhất
có thể. “Chúa Giêsu dạy cho con biết mầu nhiệm này, và con hiểu hoa nào Chúa dựng nên cũng đều đẹp cả; hoa hồng sặc
sỡ cũng như đóa huệ trắng ngần không át hương thơm của cánh hoa đồng thảo
bé cỏn con, hay vẻ đơn sơ quyến rũ của bông cúc trắng tinh... Chúa muốn dựng
nên những vị đại thánh ví như đóa hồng hay đóa huệ. Ngài cũng đã dựng nên những
vị thánh nhỏ hơn như những bông hoa đồng thảo hay hoa cúc dại trắng nằm an phận dưới gót chân để làm đẹp mắt Chúa.
Sự thánh thiện hệ tại việc thi hành ý Chúa và sống đẹp
lòng Ngài.” (TMTH, Phần Mở Đầu, tr.37)
“Tìm
kiếm và thi hành thánh ý Chúa” trong mọi hoàn cảnh cuộc đời là
con đường nên thánh của chị nữ tu Nhà Kín Lisieux. Mất mẹ khi vừa tròn 4 tuổi;
phải xa lìa người mẹ thứ hai là chị gái Paulin khi mới lên 9; lâm bệnh nặng
suýt chết năm 10 tuổi; bất lực vì không thể ở gần bên chăm sóc cho người Cha
già đau nặng khi chị mới nhập Dòng; rồi phải đón nhận tin thân phụ qua đời
trong bệnh tật lẻ loi; giữa những tình cảnh bi đát đó, Têrêxa vẫn một lòng tìm
kiếm thánh ý Chúa mà thôi. Ngài hoàn toàn tin rằng Chúa
muốn những gì là tốt đẹp nhất cho những kẻ Chúa yêu. Chị đã không cậy vào sức riêng mà chỉ dựa vào ơn Chúa.
Còn điều gì khác có thể minh chứng hùng hồn hơn cho một tâm hồn trông cậy phó
thác cho bằng một tâm hồn khiêm hạ đơn sơ? Thông điệp sống trong sáng mạch lạc
của “Bông hoa nhỏ Têrêxa” hoàn toàn phù hợp với sứ điệp Tin Mừng. Dù cho cuộc đời
có thăng trầm thay đổi ra sao đi nữa, “chúng ta
cũng hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng”
là vì chúng ta tin tưởng vào những gì Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã hứa (x. Rm 8,
28-30) và hãy nhớ rằng Chúa là “Đấng hoàn toàn
tín trung” (x. Hr 10, 23). Thiên
Chúa “đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Chúa Giêsu
Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. [Nhờ] ân sủng của Chúa Kitô, chúng ta được thừa hưởng
sự sống đời đời như chúng ta vẫn hằng trông đợi” (x. Tt 3, 6-7).
Đức Ái: Tiếng gọi của Hy Vọng
“Truyện Một Tâm Hồn” không chỉ cung
cấp cho chúng ta dữ liệu về cuộc đời và di sản tinh thần của vị Thánh nữ chúng
ta rất mực mến mộ, mà còn được mệnh danh là một “kho tàng tuy nhỏ nhưng lại vô
cùng vĩ đại”, đó là lời bình luận sáng ngời về Tin Mừng mà Thánh nữ đã sống trọn
vẹn. Đức Bênêdictô cho rằng “Truyện Một
Tâm Hồn” cũng chính là “Truyện Một Tình Yêu”. Câu truyện đó đã được kể lại một
cách chân thực, giản dị và mới mẻ đến mức nó có thể chinh phục hầu như tất cả những ai đọc nó. Chẳng phải tình yêu này đã tràn ngập
toàn bộ cuộc đời của Têrêxa, ngay từ thuở thơ ấu cho đến khi lìa đời là gì?
Tình yêu này có một khuôn mặt cụ thể, có danh tính rõ ràng, và đó là Chúa
Giêsu. Thánh nữ của chúng ta đã liên tục nói về Chúa Giêsu. Do đó, chúng ta hãy
xem lại những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của chị Thánh, để đi sâu vào
trọng tâm những giáo huấn mà chị để lại cho chúng ta.” (ĐTC Bênêdictô XVI, Bài Giáo Lý - Tiếp Kiến
Chung Hàng Tuần, Thứ Tư 06/04/2011).
Đức
Ái không chỉ hướng chúng ta về Thiên Chúa nhưng còn hướng chúng ta đến tha nhân
nữa. Vì chưng ai càng yêu Chúa thì càng dễ nhận ra Chúa nơi những kẻ
Chúa thương yêu vì thế họ không thể khước từ yêu Chúa trong tha nhân.
“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy” (x. Ga 14, 15). Và “đây là điều Thầy
truyền dạy anh em: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (x.
Ga 15,12). Đức Mến là giới răn tiên quyết Chúa truyền dạy chúng ta tuân giữ vì Đức
Mến tác động mạnh mẽ lên mọi khía cạnh cuộc đời của kẻ theo Chúa: “Đức Mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13, 4-7). “Không có Đức Mến, chúng ta chẳng là gì hết” (x. 1 Cr 13, 2)
và những việc chúng ta làm “chẳng có ơn ích gì cả” (x. 1 Cr 13, 3). Đức Mến cao trọng hơn mọi nhân đức (x. 1 Cr 13,13).
Khi quyết định dấn thân vì ơn gọi “là con tim trong cung lòng Hội Thánh”, Têrêxa ý thức rất rõ con đường chị
sắp dấn thân vào. Con đường yêu thương sẽ cho phép chị chu toàn mọi mơ ước và
nguyện vọng, kể cả giấc mơ được vĩnh viễn thuộc về Chúa. Quả thực, việc thực
thi tất cả các nhân đức được nên sinh động và được gợi hứng bởi Đức Mến. Đức Mến
là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14); là mô thể của các nhân đức; liên kết và phối hợp cả Đức Tin và
Đức Cậy (x. GLHTCG, 1827).
Cầu Nguyện: Sức mạnh của Hy Vọng
Chỉ hai năm
sau ngày nữ tu Têrêxa được tuyên Thánh (1925), Đức Piô XI tuyên bố đặt ngài làm
bổn mạng các xứ truyền giáo (1927). Dù cho chị Thánh chưa hề thoáy ly ra khỏi nội
vi đan viện và cũng chưa một lần đặt chân đến miền đất “dân ngoại” nhưng chị xứng
đáng được tuyên dương như một nhà truyền giáo thực thụ. Tâm hồn truyền giáo của
chị được biểu lộ qua thao thức “vì phần rỗi các
linh hồn” và qua tình yêu mãnh liệt chị dành cho các tội nhân. Nếu
như Đức Cậy của chúng ta thôi thúc chúng ta mong ước phần rỗi và hạnh phúc
thiêng đàng cho chính bản thân trước thì Đức Cậy nơi tâm hồn Thánh Têrêxa quá sức
vĩ đại. Đức Cậy ấy thôi thúc chị lo lắng cho phần rỗi linh hồn của tha
nhân. Chị không ngần ngại nhận lấy trách
nhiệm làm “mẹ các linh hồn” (TMTH, Lời Nguyện Dâng
Lên Chúa Giêsu, tr. 257) để nhờ Chúa cứu lấy các linh hồn ấy bằng thật
nhiều hy sinh và nguyện cầu.
Chúng ta
còn nhớ biến cố năm 1887, lúc Têrêxa mới có 15 tuổi. Cô bé Têrêxa lo lắng cho
phần rỗi người tử tù tên Pranzini.
Con mong rằng
mọi loài thụ tạo hợp ý cùng con khẩn nài ơn thánh cho các tội nhân. Từ đáy lòng
con, …con cầu nguyện cho kẻ có tội… Con vững tâm tin Chúa thứ tha cho tử tù
Pranzini bất hạnh này và con tin tưởng như thế, cho dù anh không xưng tội và
không hề tỏ ra một dấu nào cho thấy anh ta hối cải… Con hoàn toàn tín thác vào
lòng thương xót hải hà của Chúa Giêsu… Sau ngày Pranzini bị xử, con cầm ngay tờ
báo “La Croix”. Con vội vã mở ra và … con xúc động đến rơi lệ, ... Pranzini lên
đoạn đầu đài, chuẩn bị đưa đầu vào máy chém, bỗng nhiên được ơn trên thúc đẩy,
anh quay lại cầm lấy cây Thánh giá do Linh mục giơ lên và anh hôn lên những vết
thương thánh đến ba lần... Con đã được “Dấu chỉ” con xin, dấu chỉ ấy khích lệ
con [tiếp tục] cầu nguyện cho kẻ có tội… Kể từ ân huệ độc nhất này, lòng mong ước
cứu rỗi các linh hồn của con mỗi ngày một lớn thêm. (TMTH,
Thủ Bản A, tr. 133-134).
Phần rỗi của
tử tù Pranzini không phải là do Têrêxa cứu lấy. Chị ý thức rất rõ điều này. Chị
chỉ dùng lời cầu nguyện và sự hy sinh của mình để diễn tả niềm cậy trông chị đặt
nơi Thiên Chúa toàn năng. Chúa cứu anh ta. Dấu lạ đến từ đời sống cầu nguyện
cũng lại là sức mạnh củng cố Đức Tin của Têrêxa và khích lệ chị cầu nguyện nhiều
hơn nữa.
Kết:
Lời nguyện Hy Vọng
Kết thúc chặng
đường dương thế khi vừa tròn 24 tuổi, chị nữ tu người Pháp khép nhẹ bờ mi, cánh
tay buông thõng bên mạn giường làm rơi vãi xuống sàn nhà những cánh hồng còn đọng
sương mai. Tất cả những ai ngắm nhìn “Bông Hoa Nhỏ
Têrêxa” cũng có thể cảm nhận được
hương thơm nhân đức của một vị Thừa Sai Đức Tin,
vị Tông Đồ Đức Mến, và vị Sứ Giả Hy Vọng.
Đọc lại hồi ký cuộc đời của Thánh
Têrêxa, nhất là bí quyết nên thánh bằng “con
đường thơ ấu thiêng liêng” của chị, chúng ta hoàn toàn bị thuyết
phục bởi nhận xét vô cùng xác đáng của ba vị Giáo Hoàng. Tình yêu hỷ xả tràn ngập
tâm hồn thơ bé của thánh nữ. Nơi trái tim nhỏ bé mà vĩ đại ấy, Lời Chúa Giêsu
trở nên hoàn toàn ứng nghiệm: “Lạy Cha,
con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những
người thông thái, nhưng đã mặc khải cho những kẻ bé mọn” (x. Mt 11, 25). Chị hiểu ra rằng ai càng hạ mình xuống thì càng gần Ngôi Lời Nhập Thể, mẫu mực hoàn hảo về nhân đức tự hạ.
Ai càng gần Thiên Chúa Tình Yêu nhiều thì càng rành rẽ hơn về khoa học của “con
tim”, và nhờ đó sẽ được Đấng là Chân-Thiện-Mỹ soi sáng để trở nên bậc thầy về
khoa học “khôn ngoan”. “Bông Hoa Nhỏ” đơn sơ của Dòng Cát Minh không chỉ dùng
chính cuộc đời để diễn tả đức tin và lòng yêu mến của chị đối với Thiên Chúa là
Cha giàu lòng xót thương nhưng còn có khả năng làm lan tỏa niềm hy vọng chan chứa nơi trái tim chị đến những
tâm hồn chới với vì tuyệt vọng lo âu.
Trong lúc tinh thần và thể xác chúng
ta kiệt quệ rã rời, chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh cánh hoa nhỏ bé đơn sơ mang
tên Têrêxa Hài Đồng Giêsu và học lấy “linh đạo thơ ấu thiêng liêng” của ngài.
Vì chưng đó chính là bí quyết giúp cho ngài vượt qua “đêm đen đức tin” mà vẫn giữ được “niềm trông cậy vững
chắc” rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi
chúng ta giữa giông tố cuộc đời (x. Dt 6, 18). Lời nguyện hy vọng là lời nguyện theo suốt cuộc đời của chị. Chị đã không một phút nào ngưng bám vào Chúa Giêsu, tình yêu
vĩnh cửu của đời chị: “Giêsu,
con yêu mến ngài!”
Rôma, 30/09/2021.
Lm. Giuse Phan Quang Trí, O.Carm
Hẹn gặp lại