CÓ THƯƠNG THÌ XIN ĐỢI...
MẨU BÚT CHÌ
Đợi chờ xem ra chẳng có gì thú vị, chẳng ai mong muốn, bởi chỉ thêm mỏi mệt và
lãng phí thời gian, nhất là khi nhịp sống cứ hối hả trôi đi...
Người ta thường bảo rằng, đã qua rồi cái thời mơ mộng lãng du, thích đếm sao
trời và đợi chờ xa vắng... Nay là thời của những cái “nhấp chuột” làm thay đổi
cả thế giới. Thế nhưng, nếu ngắm nhìn ở một góc độ nào đó, đợi chờ vẫn có nét
đẹp dịu dàng của một mầu nhiệm, một quà tặng mà Thượng Đế trao ban cho các thụ
tạo.
Đợi chờ là “ngôn ngữ không lời” sâu thẳm của yêu thương, bất phân giai tầng,
tuổi tác,… và cũng không chỉ riêng có ở con người. Ánh mắt mẹ già mong đợi con
xa, vợ đợi chồng biền biệt, con thơ mong ngóng mẹ về,... tất cả như có cái gì đó
“chạm” đến sâu thẳm lòng người, thương nhớ mênh mông. Cũng thế, người ta không
khỏi bồn chồn trước cặp mắt dáo dác, hoảng loạn của một chú gà con lạc mẹ, hay
ánh mắt buồn hiu của chú chó chiều chiều ghếch mõm đợi chủ về... Đợi chờ, dường
như là một bản năng để diễn tả yêu thương, chẳng cần phải học hỏi, bất luận kẻ
dại hay người khôn cũng có.
Sự đợi chờ giữa cuộc đời ví như một nốt lặng – cứ ngỡ chẳng là gì, nhưng nếu
không có thì mọi thứ trở nên vô trật tự, và cũng chẳng còn ý nghĩa của cuộc
trùng phùng. Nếu không đợi mong Xuân để có Tết thì còn gì háo hức, nếu không đợi
mong Thu để ngắm lá vàng rơi thì còn đâu nỗi bâng khuâng? Nếu người ta tạo ra
được giống hoa Quỳnh nở ban ngày thì nó chẳng còn là loài hoa quý, và cũng không
còn cái thú đợi chờ ngắm hoa Quỳnh nở về đêm. Còn tình yêu, nếu không đợi chờ xa
vắng, làm sao biết đá hay vàng? Nếu không có lúc chia xa, làm sao biết được
chiều dài của sợi thương, sợi nhớ?... Cứ như thế, sự đợi chờ cơ hồ vừa là thước
đo lòng người, vừa làm cho tình yêu trở nên cao quý, lung linh.
Thoạt nghe, cứ ngỡ trong đời chỉ đợi kẻ đi xa, đâu hay lắm khi lại đợi người ở
thật gần. Gần ngay bên cạnh nhưng vẫn thấy xa vắng, cô đơn. Cô đơn trong lo liệu,
cô đơn trong suy nghĩ, trong sự khác biệt nhau. Nếu không đợi chờ nhau, dẫu có ở
bên nhau vẫn mãi là lỗi nhịp, lạc điệu. Và nếu không yêu thương, không dung thứ,
cũng chẳng thể đợi chờ. Có ngoa lắm không, nếu nói rằng niềm vui, hạnh phúc và
sự bình an trong cuộc sống này được xây dựng bằng một chuỗi những yêu thương và
chờ đợi? Vì yêu thương nên chờ đợi, và chờ đợi là diễn tả và xây dựng yêu thương.
Yêu nhau nên đợi nhau nguôi cơn nóng giận, đợi nhau vượt lên trên khoảng ấu trĩ,
dại khờ, đợi chờ, để biết thức cùng nhau những đêm dài lo lắng. Chồng đợi vợ để
có bữa cơm lành, canh ngọt, vợ đợi chồng tỉnh những cơn say, thôi vô tư, hờ hững,...
Có những khoảng đợi chờ trong nước mắt, nhưng cũng có những đợi chờ thật đời
thường nhưng tràn ngập yêu thương. Đợi để nhìn nhau ăn bát cơm ngon, ngủ một
giấc đầy. Đợi để ngắm nhìn ánh mắt trong veo của con thơ. Đợi mẹ già mắt mờ,
chân chậm... Dẫu khó nghèo chật vật, dẫu có lúc cũng giận nhau tím ruột bầm gan,
nhưng vì thương nhau nên vẫn đợi, đợi để dắt díu nhau qua những khác biệt chông
chênh...
Còn đợi chờ là còn hy vọng. Còn đợi chờ là còn niềm tin. Đôi khi không phải đặt
niềm tin vào sự khoan dung của chính mình, hay đặt niềm tin vào sự thay đổi của
người mình mong đợi, nhưng chính là đặt niềm tin vào Đấng đã tôn thờ – Đấng có
quyền năng biến đổi và hoán cải con người. Có khi sự đợi chờ có thể vô vọng
trong thực tại trần thế này, như ly nước đổ đi không hốt lại được, nhưng vẫn hy
vọng và đợi chờ trong ơn tha thứ và ơn cứu độ. Có lẽ cũng vì thế, trong góc nhìn
này, nếu sống không có Đức Tin, con người dễ rơi vào vô vọng và rạn vỡ!
Phải chăng ngày nay, cuộc sống lướt đi quá nhanh với muôn vàn hấp lực, và nhất
là ma lực của đồng tiền, nên con người không còn thời gian để lắng đọng, không
còn kiên nhẫn để đợi chờ? Những cái “ngắn hạn”, “cấp tốc”, “siêu tốc” có vẻ rất
hấp dẫn và thiết thực để chạy đua với công việc và thời gian. Con người dường
như thấy “sốt ruột” với sự tuần hoàn của vạn vật theo tứ thời, bát tiết, nên mới
xuất hiện những giống hoa tứ quý, những giống quả trái mùa. Ngày và đêm xem ra
cũng quá chậm chạp, nên mới có sáng kiến che tối ban ngày, chiếu sáng ban đêm,
rút ngắn chu kỳ đi một nửa, để con gà có thể đẻ được hai trứng một ngày. Con
người làm được tất tần tật! Ngày nay, người ta còn cho cả quả non chín được,
trái táo để một tháng không hư, thịt thối rữa cũng có thể “tái sinh” thành “tươi
sống”. Con người có vẻ như đang hăng hái trên đà thắng thế, làm chủ vạn vật càn
khôn, đẩy Thượng Đế ra khỏi “cuộc chơi”, trở thành “bù nhìn”, “bất lực”. Chỉ còn
một khái niệm “khách hàng là thượng đế”, nhưng khôi hài thay, đó là một vị
thượng đế luôn mụ mị và hay bị lừa bịp!
Thượng Đế còn hóa ra hư không thì con người có là gì! Nhân vị, nhân phẩm và nhân
quyền bị xếp sau lợi lộc và quyền lực. Thế nên mới có sự bất chấp thủ đoạn, tàn
ác với nhau. Có lẽ ngày nay, trên đất nước Việt Nam này, không ai không trải
ngiệm cái cảm giác bất an về tất cả các lĩnh vực của cuôc sống: từ thực phẩm,
giao thông, đến y tế, giáo dục, kinh tế.... thậm chí cả gia đình – cái nôi của
sự sống và tình thương, nơi mà con người dễ yêu thương và tha thứ cho nhau nhất
– cũng trở nên lục đục, rệu rã. Bởi người ta không còn muốn đợi chờ nhau, không
muốn chịu đựng, hi sinh cho nhau nữa. Cái hạnh phúc của một tình yêu sâu thẳm,
chắt chiu mưa nắng cùng nhau, trở nên thứ gì đó quá mơ hồ, ảo mộng, hoặc trở
thành thứ quá xa xỉ giữa cuộc sống hết sức “thực tế” này. Quan hệ giữa người và
người trong xã hội cũng trở nên chóng vánh, “tuỳ hứng”, đầy những nghi nan, lừa
lọc.
Đến đây, có thể nói ví von một cách hình tượng rằng: đời người cũng giống như
một cái cây. Cây muốn phát triển mạnh mẽ thì bộ rễ phải bám sâu vào đất – đất ấy
là Đạo. Đất tốt thì cây xanh. Nền tảng đạo lý tốt sẽ cho con người những nguyên
tắc luân lý cũng như cách nhìn về con người và xã hội phù hợp với trật tự tự
nhiên, hướng đến phát triển con người vào phục vụ công ích. Thân cây như một
“ống dẫn”, ví như việc nhận thức những nguyên tắc luân lý ấy, cộng với phần hấp
thu nắng gió, khí trời của bộ lá chính là việc giáo dục, để rồi trổ sinh hoa
trái là những biểu hiện văn hoá của mỗi con người. Cứ nhìn quả thì biết cây,
biết đất (Mt 12,33; Lc 6,44). Và dĩ nhiên, để có hoa thơm, trái tốt, phải có đất
tốt, phải được chăm sóc, tưới tắm, đủ nắng, gió, khí trời.
Nếu nhìn cuộc đời một cách vắn vỏi, tất cả chỉ xuất phát và kết thúc ngay tại
trần thế này – sinh ra, bương chải, và chấm dứt tại nơi đây – thì dường như mọi
thứ trở nên tăm tối và vô vọng. Nhưng không như thế. Nhìn ngắm sự huyền diệu của
đất trời, lắng nghe tiếng mời gọi hướng thiện của lương tâm, tiếng vọng của tâm
hồn thôi thúc đi tìm ý nghĩa cuộc sống, người có Đức Tin sẽ nghe thấy tiếng của
Đấng đã tác tạo nên mình, Đấng vẫn đang vận hành vũ trụ càn khôn, đang chịu đựng
sự ngạo mạn, độc ác của con người, và cũng đang đợi chờ con người thống hối. Có
lẽ trong các sự đợi chờ, sự đợi chờ của Ngài là vĩ đại nhất, bởi Ngài có quyền
năng giũ bỏ tất cả, giũ bỏ cả vũ trụ này trong chớp mắt, nhưng vì Tình Yêu và
Lòng Thương Xót, Ngài vẫn kiên nhẫn đợi chờ.
Sự đợi chờ của Đấng Tạo Hoá có làm lòng người mềm lại? Chiêm nghiệm sự đợi chờ
ấy, con người có trở nên khiêm nhường hơn để có thể nhận được thêm nghị lực mà
đợi chờ nhau? Bởi cho dẫu có bôn ba, dẫu có đạt được mọi thứ làm thoả mãn thể
xác, quyền lực, thì khi gác tay lên trán, tận sâu trong đáy lòng, người ta vẫn
cần sự yêu thương –yêu thương chân thật, không mưu mô, toan tính. Càng đi về
phía “bên kia” con dốc của cuộc đời, đồng nghĩa với sự vơi dần những háo hức,
háo thắng, con người dường như càng dễ cảm thấy cô đơn, càng muốn sống gần nhau,
càng khao khát chân tình, và chắc có lẽ cũng có những lúc phải thốt lên những
lời hối tiếc: “Giá mà trước đây...”.
Giật mình nhìn lại, chợt thấy Tạo Hoá quả thật tuyệt vời: có Ngày để bước thật
nhanh theo những bước tiến của thời đại, nhưng cũng có Đêm để dừng lại nghỉ ngơi,
nhìn vào lòng mình và nhìn những gì đang diễn ra xung quanh, nhìn vào ước muốn
và hy vọng, rồi lần tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời, để biết chiến đấu và
hoán cải. Trong Đức Tin, con người ngước mắt xin ơn soi sáng và sức mạnh, không
chỉ để bước tới mà còn để ngoảnh lại đợi chờ, kẻo một ngày nào đó, chúng ta có
thể mất hút trong nỗi cô độc!
( Trích tập san GHXHCG số 18)
Tác giả:
Mẩu Bút Chì
|