.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời nói đầu

Lời Tựa

PHẦN I: Những Suy Tư và Định Hướng về Bản Chất của THA THỨ

Chương I: Tầm quan trọng của sự tha thứ trong đời sống chúng ta

Chương II: Một chuyện ngụ ngôn về sự tha thứ

Chương III: Vạch trần những quan niệm sai lầm về tha thứ

Chương IV: Tha thứ, một cuộc phiêu lưu nhân bản và thiêng liêng

Chương V: Làm sao lượng định những điều xúc phạm ?

Chương VI: Tha thứ cho ai ?

Chương VII: Một kinh nghiệm tha thứ thực sự

PHẦN II : Mười Hai Giai Đoạn Tha Thứ Đích Thực

Giai đoạn I: Không trả thù và khiến thôi đi những cử chỉ xúc phạm

Giai đoạn II: Nhận biết thương tổn và sự nghèo nàn của mình

Giai đoạn III: Chia sẻ thương tổn của mình với một người nào đó

Giai đoạn IV: Xác định rõ mất mát của mình để đành nhận chịu mất mát

Giai đoạn V: Chấp nhận nỗi giận và lòng muốn báo thù của mình

Giai đoạn VI: Tha thứ cho chính mình

Giai đoạn VII: Hiểu kẻ xúc phạm đến mình

Giai đoạn VIII: Tìm ra trong cuộc sống mình một ý nghĩa cho sự xúc phạm

Giai đoạn IX: Biết mình đáng được tha thứ và đã được đặc xá

Giai đoạn X: Thôi tự làm khổ mình vì muốn tha thứ

Giai đoạn XI: Mở lòng ra với ân sủng tha thứ

Giai đoạn XII: Quyết định chấm dứt hoặc đổi mới quan hệ

Cử hành sự tha thứ - Phần kết

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Làm Sao Để Tha Thứ
Tác giả: Lm. Trần Minh Huy, pss
nguyên tác Jean Monbourquette
CHƯƠNG I: TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ THA THỨ TRONG ĐỜI SỐNG CHÚNG TA

Bạn muốn được hạnh phúc trong chốc lát ?- Hãy trả thù.  
Bạn muốn luôn luôn được hạnh phúc ? - Hãy tha thứ.
 
                                                                        Henri Lacordaire  
 
Dù sao đi nữa, những biến cố trong cuộc sống hàng ngày chứng tỏ rõ ràng rằng sự tha thứ và hòa giải cần thiết biết bao cho sự canh tân cá nhân và xã hội. Điều này không chỉ đúng trong quan hệ giữa cá nhân với nhau mà còn trong phạm vi các cộng đồng và các dân tộc.
 
Gioan Phaolô II  
 
 
Tha thứ vẫn luôn có tính cách thời sự, cả trong thế giới tục hóa của chúng ta. Không cần phải mất nhiều thời gian lắng nghe người khác thổ lộ mới nhận ra sự cần thiết nóng bỏng của tha thứ. Quả thực, chẳng ai thoát khỏi những tổn thương do mất mát, chán nãn, phiền muộn, đau buồn vì tình, phản bội, v.v... Những khó khăn trong cuộc sống chung được tìm thấy rất nhiều ở khắp mọi nơi : những xung đột giữa vợ chồng, trong gia đình, giữa những người yêu phải chia tay, giữa vợ chồng ly thân - ly dị, giữa chủ và thợ, giữa bạn bè, giữa láng giềng, giữa các chủng tộc hay quốc gia. Một ngày nào đó, tất cả đều cần đến sự tha thứ hầu tái lập hòa bình và tiếp tục chung sống với nhau. Trong cuộc lễ kỷ niệm 50 năm thành hôn, có người hỏi bí quyết của đôi vợ chồng. Người vợ trả lời : "Sau một cuộc cải vả, không bao giờ chúng tôi đi ngủ mà không xin lỗi lẫn nhau".
 
 
Để khám phá ra tất cả tầm quan trọng của tha thứ trong các mối tương quan nhân loại, chúng ta hãy thử tưởng tượng một thế giới không có tha thứ sẽ như thế nào. Đâu là những hậu quả trầm trọng của nó ? Có lẽ người ta sẽ bị kết buộc trong bốn chọn lựa sau đây, mà chúng ta sẽ khảo sát cặn kẻ hơn :
 
 
Duy trì mãi trong mình và trong kẻ khác sai trái đã phải chịu,
 
Sống trong sự oán giận,
 
Bám chặt vào quá khứ,
 
Trả thù.
 
 
 
1. Duy trì mãi trong mình và kẻ khác sự dữ đã phải chịu :  
 
Khi ai bị tác hại đến toàn bộ thể lý, tinh thần hay thiêng liêng, thì có cái gì đó nghiêm trọng sản sinh nơi người ấy. Một phần hữu thể của họ bị va chạm, xé nát, bị hoen ố và xúc phạm, dường như sự độc ác của kẻ tấn công đã động đến cái tôi thâm sâu của mình. Họ trở nên có khuynh hướng bắt chước kẻ xúc phạm đến mình, dường như bị lây nhiễm phải một thứ vi trùng truyền nhiễm. Căn cứ vào một thứ bắt chước ít nhiều có ý thức đó, họ bị đun đẩy, đến phiên mình, tỏ ra độc ác, không những chỉ đối với kẻ xúc phạm, mà cả đối với chính mình và kẻ khác. Một người đàn ông sống với một người đàn bà mới ly dị ít lâu chia sẻ với tôi những khó khăn ông ta cảm thấy trong cuộc sống chung của họ. Ông nói : "Đôi khi tôi có cảm tưởng như nàng bắt tôi phải trả giá cho những điều bậy bạ mà người chồng cũ của nàng đã bắt nàng phải chịu đựng".
 
 
Sự bắt chước kẻ tấn công mình là một cơ chế tự vệ rất phổ biến trong khoa tâm lý. Bởi một phản xạ sinh tồn, nạn nhân đồng nhất hóa với tên lý hình. Trong cuốn phim Đan Mạch tuyệt vời Pélé, le conquérant, người ta không trình bày rõ làm sao một đứa trẻ dịu dàng như Pélé lại thích thú lấy roi quất túi bụi đứa bạn chậm trí của nó. Mọi sự trở nên rõ ràng khi nhớ lại rằng Pélé chỉ tái diễn trên một đứa trẻ vô tội cái lối ứng xử của thằng giữ trang trại đã hạ nhục Pélé với những lằn roi trong quá khứ. Chúng ta cũng tìm thấy cùng hiện tượng đó trong phim sinh học của Lawrence d'Arabie. Chúng ta chứng kiến sự thay đổi tận căn tính tình của vị anh hùng. Sau khi bị tra tấn, ông ta trở nên một người hoàn toàn khác. Từ một tính tình ôn hòa và nhân ái, ông trở nên hung hăng và tàn bạo. Biết bao kẻ tấn công tình dục và lạm dụng thô bạo chỉ là lặp lại những hành động hung bạo mà chính họ đã phải gánh chịu trong thời thơ ấu chăng ? Trong việc điều trị có tính cách gia đình, chúng ta thường nhận thấy rằng trong những hoàn cảnh bị ứng suất, trẻ con  chấp nhận theo những lối ứng xử tương tự với những lối ứng xử của cha mẹ chúng. Cũng thế, chúng ta có trước mắt gương của những nước sử dụng cho các dân tộc khác chính những sách lược phi nhân mà chính họ đã phải chịu đựng trong thời gian bị bách hại.
 
 
Tôi không có ý nói ở đây về sự trả thù chính hiệu, nhưng muốn nêu rõ những phản xạ tiềm ẩn trong vô thức cá nhân hoặc tập thể. Chính vì thế, trong việc tha thứ, chúng ta không chỉ dừng lại ở chỗ không trả thù, nhưng còn phải dám đi cho tới tận gốc rễ của những khuynh hướng bạo lực lệch lạc để đánh bật chúng ra khỏi mình, và để chận đứng các hậu quả tàn phá của chúng trước khi quá muộn. Bởi vì những thiên hướng thù nghịch và thống trị kẻ khác như thế có nguy cơ được truyền chuyển từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, trong các gia đình cũng như trong các nền văn hóa. Chỉ có sự tha thứ mới có thể bẻ gãy những phản ứng dây chuyền nầy, chận đứng những hành vi lặp đi lặp lại của việc trả thù, hầu biến đổi chúng thành những hành vi sáng tạo sự sống.
 
 
 
2. Sống trong một mối oán giận thường kỳ : 
 
Biết bao nhiêu người đau khổ phải sống trong một mối oán giận thường kỳ. Hãy lấy trường hợp của những người ly dị. Những cuộc nghiên cứu mới đây về các hậu quả về lâu về dài của việc ly dị đã minh chứng rằng một số lớn những vợ chồng đã ly dị, đặc biệt các bà vợ, vẫn còn tiếp tục nuôi dưỡng trong lòng nhiều nỗi oán giận đối với người phối ngẫu cũ, ngay cả sau mười lăm năm chia tay. Trong kinh nghiệm lâm sàng của tôi, tôi năng có cơ hội để nhận thấy rằng một số phản ứng tình cảm quá trớn chỉ là sự phục hoạt của một tổn thương quá khứ không được chữa lành cho đúng.
 
 
Quả thế, sống buồn giận, dù là cách vô thức, làm tiêu hao nhiều nghị lực và nuôi dưỡng cơn ứng suất thường kỳ. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn cái gì xảy ra nếu nhớ luôn trong trí sự khác biệt giữa sự oán giận sản sinh ra ứng suất và sự tức giận không làm điều đó. Sự tức giận là một xúc cảm tự nó vô thưởng vô phạt và sẽ biến tan một khi đã được bộc lộ ra, trong khi đó sự oán giận và thù nghịch tồn tại như một thái độ tự vệ luôn luôn cảnh giác chống lại mọi sự tấn công có thực hoặc tưởng tượng. Như thế kẻ bị chế ngự và hạ nhục trong buổi thơ ấu sẽ trở nên nhất quyết không bao giờ để bị ngược đãi nữa. Nó thường xuyên đề cao cảnh giác. Hơn nữa, nó có khuynh hướng phát minh ra những chuyện âm mưu hay tấn công khả dĩ chống lại nó. Chỉ có sự chữa lành được thực hiện sâu xa bởi việc tha thứ mới có thể mang lại phương dược cho tình trạng căng thẳng nội tâm nầy.
 
 
Sự oán giận mưng mủ từ một thương tổn không được chữa lành đúng cách cũng có những hậu quả gây hại khác. Nó là nguyên do của nhiều chứng bệnh tâm thể lý. Sự ứng suất tạo nên bởi oán giận tấn công ngay vào hệ thống miễn dịch. Hệ thống miễn dịch luôn luôn ở tình trạng báo động sẽ không còn biết khám phá ra kẻ thù nữa. Nó không còn nhận ra các tác nhân gây bệnh nữa. Nó còn tấn công ngay cả các bộ phận lành mạnh mà nó được coi như phải bảo vệ. Người ta giải thích như thế về sự phát sinh nhiều chứng bệnh như  chứng viêm khớp, chứng xơ cứng động mạch, chứng xơ cứng từng mảng, những bệnh về tim mạch, tiểu đường, v.v… Giữa những chiến lược tự vệ chống lại những hậu quả có hại của sự oán giận, bác sĩ Redford khuyên thực tập thường xuyên tha thứ trong cuộc sống mỗi ngày.
 
 
Sau khi mô tả các cuộc nghiên cứu khoa học khác nhau về mối liện hệ nhân quả giữa các trạng thái tình cảm tiêu cực và sự xuất hiện bệnh ung thư, bác sĩ Carl Simonton dành cả một chương sách Guérir envers et contre tous chứng minh rằng sự tha thứ vẫn là phương tiện tốt nhất để vượt thắng nỗi oán giận gây hại của mình. Nhờ một kỹ thuật tranh ảnh tâm thần, ông mời những người bị ung thư cầu chúc điều tốt lành cho ông hay bà nào đã làm họ bị tổn thương. Những ai sử dụng một kỹ thuật như vậy đã cảm nhận một sự giảm bớt rõ rệt cơn ứng suất của họ. Họ cảm thấy mạnh mẻ hơn để chống lại bệnh hoạn của mình. Thật là ngạc nhiên một tiếp cận đơn giản như thế với sự tha thứ lại có thể làm phát sinh những hậu quả sinh phúc dường ấy.
 
 
 
3. Bám chặt vào quá khứ :     
 
Người không muốn tha thứ hay không thể tha thứ sẽ sống thời khắc hiện tại một cách khó khăn. Y khư khư bám chặt vào quá khứ, và bởi chính sự kiện đó, tự buộc tội mình làm hỏng hiện tại, hơn nữa làm ách tắc tương lai của mình. Trong vở diễn Le voyage dans la nuit của Eugene O'Neill, Mary Tyrone bị kiệt lực vì cứ nghiền ngẫm không ngừng một quá khứ nặng nề và khép chặt với tha thứ. Nàng trở thành một gánh nặng và một nguồn phiền muộn cho các phần tử trong gia đình. Chồng nàng khổ sở van xin : "Maria ơi, vì tình yêu thiên đàng, xin em hãy quên quá khứ đi!". Nàng đốp lại : "Tại sao ? Làm sao em có thể quên đi được ? Quá khứ, chính là hiện tại, không. Quá khứ, cũng chính là tương lai. Chúng ta đều cố gắng thoát ra khỏi đó, nhưng cuộc đời lại không cho phép mình". Trước sự bất lực tha thứ của mình, đời sống nàng bị đông cứng. Việc nhớ lại quá khứ trở về làm tăng thêm nỗi đau khổ cố hữu của nàng. Thời khắc hiện tại bị tả tơi trong những sự nghiền ngẫm vô ích : thời gian trôi đi không hạnh phúc, niềm vui có thể có được từ những quan hệ con người bị mờ nhạt. Tương lai bị bít lại và đe dọa : không còn những mối liên hệ tình cảm mới, không còn những dự tính mới… Cuộc sống đóng neo trong quá khứ.
 
 
Kinh nghiệm lâm sàng của tôi với những người đau buồn vì cái chết hay sự chia ly với một người thân yêu chứng minh cho tôi thấy rằng sự tha thứ  là đá thử vàng cho phép kiểm chứng xem sự thanh thoát đối với một người yêu mến đã đạt tới cùng chưa. Sau khi giúp người đó nhận ra vết thương, lau chùi vũ trụ tình cảm và khám phá ra ý nghĩa vết thương của y, tôi mời y thực hiện một cuộc tha thứ : tha thứ cho chính mình, để loại bỏ nơi y mọi dấu vết của mặc cảm tội lỗi, và tha thứ cho người thân yêu đã khuất, ngõ hầu xua đuổi mọi nỗi oán giận còn lại gây nên bởi sự chia lìa. Trong động thái của tang chế, sự tha thứ phô bày một giai đoạn quan trọng và quyết định. Chính nó chuẫn bị cho tâm hồn bước sang giai đoạn kế tiếp, đó là giai đoạn thừa kế di sản mà người thọ tang lấy lại được tất cả những gì nó đã yêu quí nơi người kia. Sau nầy tôi sẽ mô tả cặn kẻ hơn giai đoạn thừa kế nầy cũng như nghi thức cho phép nhận lãnh di sản ấy.
 
 
 
4. Trả thù :
 
 
Những di hại đầu tiên của cuộc sống không tha thứ chẳng mang lại gì làm thỏa lòng cả, như chúng ta vừa nhận định. Đâu là di chứng của sự trả thù ? Nó có đưa ra những viễn ảnh triển nở hơn khong ? Chắc chắn nó là câu trả lời có tính cách bản năng nhất, tự phát nhất đối với điều lăng nhục. Tuy nhiên, JM. Pohier viết rằng tìm bù trừ nỗi đau khổ của mình bằng cách gây đau khổ cho kẻ xúc phạm mình, chính là nhìn nhận cho sự đau khổ một tầm mức thần diệu mà còn lâu nó mới có. Dĩ nhiên việc nhìn thấy kẻ xúc phạm mình bị hạ nhục và đau khổ tạo nên cho người trả thù một vui khoái say mê. Nó thoa một thứ dầu thơm tạm thời lên nỗi đau riêng tư và lên nỗi nhục nhã của y. Nó làm cho người bị xúc phạm có cảm giác như không còn cảm thấy cô đơn trong nỗi bất hạnh nữa. Nhưng sẽ phải trả giá nào ? Đó là một sự thỏa mãn ngắn ngủi không có triển nở thực sự và không có tính sáng tạo trong các mối quan hệ.
 
 
Một cách nào đó, trả thù là một thứ công lý có tính cách bản năng đến từ các thần linh sơ khai của vô thức. Nó nhằm tái lập một sự bình đẳng đặt nền tảng trên nỗi đau khổ gây ra cho cả hai bên. Trong truyền thống Dothái giáo, luật phạt bằng ngang danh tiếng "mắt đền mắt, răng đền răng" có mục đích quy định việc trả thù. Nó muốn giảm nhẹ những lời nói của Lamek, con trai Cain, đã tuyên bố với các bà vợ : "Ta đã giết một mạng người vì một vết thương, một đứa trẻ vì một sầy sướt. Phải, Cain sẽ được trả thù gấp bảy lần, nhưng Lamek sẽ được bảy mươi lần bảy!" (Stk.4, 23-24). Bản năng trả thù làm mù quáng kẻ nhượng bộ nó. Làm sao có thể lượng định được giá trị chính xác của một đau khổ để đòi hỏi người có lỗi phải chịu một đau khổ tương đương ? Quả thực, kẻ xúc phạm và người bị xúc phạm đều không ngừng leo thang, khiến càng ngày càng khó phán đoán sự ngang nhau của các thương tổn. Hãy lấy ví dụ cổ điển nợ máu của người đảo Corse trong đó cái chết của những người vô tội cứ kế tục từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Dĩ nhiên những sự trả thù trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta ít đẫm máu hơn. Nhưng không phải là ít thiệt hại hơn đối với các mối quan hệ giữa người với người.  
 
Khi ở trong bầu khí trả thù, người ta thường quên đi tác động phá hoại của sự trả thù trên toàn thể môi trường. Chẳng hạn, ở một học hiệu kia, sự xung đột cá nhân giữa vị giám đốc và một giáo sư  đã biến thành một trận chiến giữa hai lập trường của đoàn giáo sư. Nhiệt độ ngờ vực và ứng xử không công minh lan ra cả nơi các học viên. Bầu khí làm việc và học tập vì thế mà ngày càng trở nên nặng nề và khó nhọc. Cũng cần phải ghi nhận tầm quan trọng tiên quyết của một thái độ tha thứ nơi các nhân vật nắm giữ quyền bính. Nếu họ để bị lôi kéo bởi tinh thần trừng phạt nhân danh xã hội của mình thì sự xung đột sẽ đạt tới những tầm mức kinh khủng và không thể kiểm soát được nơi những người thuộc quyền của họ.  
 
Thỏa mãn mà sự trả thù mang lại kéo dài rất ngắn ngủi. Nó không thể nào bù trừ nổi các thiệt hại mà nó sẽ gây nên trong hệ thống các mối quan hệ giữa người với người. Ngoài ra, sự trả thù sẽ phát động những chu kỳ bạo lực khó mà bẻ gãy. Nỗi ám ảnh phục thù chẳng đóng góp gì để chữa lành vết thương của người bị xúc phạm, song hoàn toàn ngược lại, nó đầu độc y. Hơn nữa, không nên nghĩ rằng chỉ nguyên quyết định không trả thù kiến tạo được sự tha thứ. Tuy nhiên, nó vẫn là bước đầu tiên quan trọng và có tính cách quyết định để dấn thân trên con đường tha thứ.

Tác giả Lm. Trần Minh Huy, pss (nguyên tác Jean Monbourquette)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!