.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời Mở đầu

Chương Một : Đoái thương nhìn cuộc đời

Chương hai: Nhìn Đời với Trăm Con Mắt

Chương Ba: Lắng nghe tiếng kêu trầm thống của nội tâm

Chương bốn: Lắng nghe với trăm lỗ tai

Chương Năm: Học làm người trong từng giây phút của cuộc sống

Chương Sáu: Quan hệ hài hòa, đồng cảm

Chương Bảy: Tuyên dương và Khen thưởng những bước đi làm người

Thay lời cuối: Ông Đồ Sộ

Phụ Trương Một: Khổ đau và hạnh phúc

Phụ Trương Hai: Khi chúng ta tiếp xúc và trao đổi

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Đồng Cảm Để Đồng Hành
Tác giả: Gs. Nguyễn Văn Thành
PHỤ TRƯƠNG MỘT: KHỔ ĐAU VÀ HẠNH PHÚC

Ước mơ hạnh phúc có mặt trong tâm hồn của tất cả chúng ta, dù mỗi người có một lối nhìn riêng biệt và độc đáo về bản sắc của hạnh phúc và con đường thực hiện. Trong lòng cuộc đời nầy, khổ đau cũng có mặt khắp muôn nơi, trong mọi hang cùng ngõ hẻm của nhân loại.

Theo giáo lý của đạo Bụt, "phiền não tạo bồ đề". Cây giải thoát chỉ nảy mầm đâm mộng trong lòng đất khổ đau. Hoa sen nở ra, cống hiến hương sắc cho đời, sau khi đã vươn mình lên, vượt khỏi lớp bùn lầy nước đọng. Tin Mừng của Đức Kitô cũng kêu mời chúng ta ngày ngày thực hiện cuộc "VƯỢT QUA" ấy. Phục Sinh phải chăng là hoa trái ngọt ngào, chỉ xuất hiện ở cuối chặng đường khốn khổ và gian truân ? Con đường nầy là một tất yếu (từ Hy lạp là ananké) thuộc thân phận và điều kiện làm người.

Trong khoảng mười năm gần đây, với những khám phá mới mẻ về vai trò và tầm quan trọng của xúc cảm trong đời sống con người, tâm lý học đương đại cũng đang nhấn mạnh và làm nổi bật mối liên hệ mật thiết giữa hạnh phúc và đau khổ. Nói cách khác, khổ đau không thể không có mặt trong lòng cuộc đời. Trong những cuốn sách đã được phát hành, tôi thường dùng lối nói ví von, rằng "khổ đau là rác, là phế liệu, do con người làm ra". Chỗ nào có con người chung sống, hợp tác, đồng hành và chia sẻ, trong bất cứ địa hạt nào, chỗ ấy thế nào cũng có "rác" dần dần xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Rác ấy sẽ biến thành khổ đau, nếu nó tạo nên tình trạng xung đột, kỳ thị, hận thù, chiến tranh giữa người với người. Trái lại, chừng nào con người có khả năng "chuyển luân" rác thành vật tư hay là phương tiện phục vụ con người, lúc ấy HẠNH PHÚC thuộc tầm tay thực hiện của con người. Thuộc chủ quyền của chúng ta.

Nhằm quảng khai những tư tưởng nói trên, bài nói chuyện nầy sẽ lần lượt trình bày hai phần sau đây :

Trong phần đầu, tôi sẽ liệt kê một vài dấu hiệu cụ thể và khách quan nhằm phát hiện tình trạng khổ đau, đang có mặt trong chúng ta và giữa chúng ta. Trong phần hai, tôi sẽ khẳng quyết thêm rằng : hạnh phúc toàn mãn và trọn vẹn không bao giờ hiện hữu trên đời này. Trái lại, đó là một tiến trình liên lỉ do tôi chọn lựa và quyết định. "Có công mài sắt có ngày nên kim". Nói khác đi, hạnh phúc là mùa màng, do chính tôi gieo và gặt hái, bằng cách chấp nhận những nhu cầu của chính mình và tôn trọng nhu cầu làm người của mỗi anh chị em đang sống chung quanh chúng ta. Trong lời kết luận, tôi sẽ nhấn mạnh rằng : hạnh phúc vừa là một quyền lợi của mỗi người sinh ra trong trời đất nầy. Đồng thời, đó cũng là trách nhiệm làm người của chúng ta tất cả, đối với từng anh chị em, trong lòng xã hội, quê hương và nhân loại. Hẳn thực, bao lâu còn có một người đang bị áp bức bóc lột, tôi có trách nhiệm giải thoát người anh chị em ấy, bằng bàn tay và tấm lòng của tôi. Bao lâu còn có người đi ăn xin, nằm lê lết qua đêm trên hè phố, trách nhiệm làm người của tôi là làm một cái gì cụ thể thuộc tầm tay của mình, để chia sẻ niềm "ưu tư và ước vọng" của người ấy.

Trên con đường tìm kiếm và thực hiện hạnh phúc, với tư cách làm người, chúng ta không thể tiến bước lẻ loi, một mình. Chúng ta đồng hành và chia sẻ. Tôi chỉ có thể gặt hái mùa màng hạnh phúc chừng nào tôi biết gieo vãi hạt giống hạnh phúc trong vườn lòng của mỗi người anh chị em hai bên cạnh tôi.

1.- Làm sao phát hiện những dấu hiệu khổ đau nơi chính mình và nơi kẻ khác ?

Sơ đồ sau đây trình bày bốn thành tố với bốn phần vụ khác nhau của nội tâm :

Khi khổ đau xâm chiếm và tràn ngập tâm hồn, bốn loại triệu chứng khách quan sẽ từ từ xuất hiện trong bốn lãnh vực của nội tâm.

Loại 1 nằm ở cửa vào. Thay vì ghi nhận thực tại một cách khách quan cụ thể, nghĩa là có sao nói vậy, cố gẳng phản ảnh thực tại bên ngoài, một cách trung thực toàn diện, chúng ta thường có khuynh hướng xuyên tạc bóp méo sự kiện, bằng ba cách sau đây :

(a)   vơ đũa cả nắm, nghĩa là biến hóa một sự kiện cụ thể thành một qui luật tổng quát và thường hằng;

(b)   gạn lọc, nghĩa là ghi nhận những sự kiện thuận lợi và thích hợp cho hệ thống tin tưởng của chúng ta. Khi đã ghét ai, chúng ta chỉ thấy nơi người ấy những khía cạnh tiêu cực và bỏ quên những đặc điểm tích cực năng động;

(c)    chủ quan hóa hay là xuyên tạc, nghĩa là chỉ lưu tâm nhấn mạnh đến ý kiến riêng tư của bản thân mình mà không tôn trọng lối nhìn của những người khác, nhất là những ai không cùng chia sẻ quan điểm và lập trường của chúng ta.

Loại hai nằm trong địa hạt thuyên giải. Thay vì trình bày ý kiến và ý nghĩa của mình cũng như tôn trọng, lắng nghe quan điểm của kẻ khác, chúng ta thường có xu thế phân biệt hai phe đối lập với nhau :

tao tốt - mày xấu

tao có lý - mày vô lý

tao đúng - mày sai

tao có ý ngay lành - mày có ý đồ gian ác, lưu manh

Lối suy nghĩ nhị nguyên ấy, với bao nhiêu lời tố cáo, phê phán, đổ lỗi, chụp mũ, gắn nhãn hiệu ... là triệu chứng khách quan bên ngoài của một tâm hồn đang bị khổ đau bủa vây và làm tê liệt một cách trầm trọng những sinh hoạt hằng ngày.

Loại ba nằm trong địa hạt xúc động và tình cảm. Một cách đặc biệt và rõ ràng, trong địa hạt xúc động và tình cảm, khi nào ai đau khổ thì người ấy sẽ bị bế tắc, phong tỏa hay là tràn ngập, đắm đuối. Họ mất khả năng làm chủ bản thân và cuộc đời. Họ cảm thấy mình là nạn nhân của bao nhiêu người khác, trong đời sống gia đình và xã hội. Theo ngôn ngữ của Daniel GOLEMAN, tình trạng nầy của nội tâm được so sánh như một cuộc đảo chánh, trong đó chính phủ bị lật đổ, nghĩa là lý trí không còn hoạt động một cách sáng suốt. Bao nhiêu quyết định và chọn lựa đều mang sắc thái của dục vọng mù quáng, bốc đồng và hỗn độn.

Sống trong những tình huống như thế, con người - phàm là ai, cho dù ở địa vị hoặc chức vụ nào, có trình độ học thức cao hay thấp... - sẽ dần dần đánh mất ý thức về bản sắc hoặc căn cước đích thực của mình. Họ không còn nhận biết mình là ai, có những nhu cầu cơ bản như thế nào. Cũng vậy, họ không nhận biết anh chị em mình là ai, có những nhu cầu cơ bản như thế nào ... Rốt cuộc, chúng ta là ai trong lòng quê hương, đất nước ? Chỉ là nồi da nấu thịt ! Hay là gà một nhà bôi mặt đá nhau, từ đời nầy sang đời khác.

Loại thứ bốn nằm trong lãnh vực quan hệ tiếp xúc và trao đổi. Trong một đất nước hoặc xã hội hạnh phúc, không có kẻ thắng người thua. Không có chủ nhân và nô lệ. Không có phân biệt bạn và thù, trắng đen rõ rệt. Theo truyền thống văn hóa của Lạc Long Quân và Âu Cơ, chúng ta tất cả là anh chị em đồng bào, mang dòng máu Rồng Tiên trong huyết quản. Trái lại, khi quả tim chúng ta là sào huyệt của khổ đau, đam mê và dục vọng, chính chúng ta làm nên những con sông Nhật Lệ, Bến Hải, những hàng rào kẻm gai giữa người với người.

Nhiều khi chính chúng ta đã đào hầm chôn sống những người anh chị em của chúng ta, cơ hồ Trần Thủ Độ - vị công thần khai nguyên nhà Trần - đã làm cách đây hơn bảy thế kỷ, đối với tôn thất nhà Lý. Cũng vậy, để thiết lập triều đại nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã truất phế đứa con rể của mình là vua Trần Huệ Tông, nhốt ngài vào một ngôi chùa heo hút, xa cách thủ đô Thăng Long. Thế vẫn còn chưa đủ. Ông còn sai bộ hạ đem dây đến thắt cổ vị vua cuối cùng của nhà Trần. Sở dĩ như vậy là vì ông chủ trương "nhổ cỏ phải nhổ tận gốc".

Lịch sử Việt Nam cho chúng ta thấy rõ : từ cổ chí kim, phần lớn những triều đại hay chính thể luôn luôn khởi đầu bằng những cuộc thanh trừng đổ máu. Và cuối mỗi thời đại, thường có những người sẵn sàng bán đứng quê hương, sụp lạy trước ngoại bang để xin xỏ, cầu viện hay là "rước voi chà mả tổ".

II.- Làm sao xây dựng hạnh phúc cho bản thân và cuộc đời ?

Để hiểu rõ thế nào là hạnh phúc, chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện sau đây của C. STEINER :

Ngày xửa ngày xưa, vào thời nguyên thủy, con người khắp nơi trên mặt đất đã sống với nhau những chuỗi ngày rất hạnh phúc và hòa bình. Chúng ta hãy đến viếng thăm họ và tìm cách học hỏi nơi họ đâu là bí quyết của một đời hạnh phúc. Thuở ấy, mỗi người vừa sinh ra đã có hai chiếc bị nằm sẵn ở trước ngực và sau lưng của mình. Với chiếc bị nằm sau lưng, tôi nhận lãnh tất cả mọi quà tặng do cha mẹ, họ hàng bà con xa gần mang đến. Nào là lương thực, trò chơi, kiến thức, áo quần, vật tư xây nhà cửa và dụng cụ sản xuất, lao động. Mỗi lần có người cần một vật dụng, tức khắc có một người khác sẵn sàng xuất hiện và biếu tặng món quà cần thiết cho người ấy.

Cũng vào thời kỳ vàng son nầy, khi tôi nhận thấy có người đang cần một món đồ, bất kỳ thuộc địa hạt nào, tôi chỉ cần đưa tay vào chiếc bị ở đằng trước ngực, tức thì tôi kiếm ra được món đồ mà người kia đang cần cho bản thân và cuộc sống của mình. Ngày ngày lớn lên, tôi thấy mọi người đều làm như vậy. Và tôi đã học sống quảng đại, giống như mọi người. Cuộc sống thuở ấy thật là phong phú, sung mãn cho mọi người và cho từng người, không trừ sót một ai.

Thế rồi, một hôm, bỗng xuất hiện một bà phù thủy. Không ai biết bà đến từ hành tinh nào. Ngày ngày, bà cứ đi rỉ tai từng người, già trẻ lớn bé :"Con hãy khôn ngoan, lựa người mà cho. Hãy giữ lại cho mình một đôi điều cần thiết. Thời buổi khó khăn sẽ ùa đến. Lúc bấy giờ con sẽ thiếu thốn mọi sự".

Cũng từ đấy, con người bắt đầu lo sợ. Nhiều lần, khi thấy bạn bè bà con thiếu một vật dụng, theo thói quen, họ đưa tay vào chiếc bị ở đằng trước. Nhưng nhớ lại lời khuyên của bà phù thủy, người ấy lập tức rút tay ra, không còn muốn cho đi một cách dễ dàng, đơn sơ như trước đây.

Vì thái độ dè sẻn và tự vệ của mỗi người, cuộc sống làm người đã thay đổi bộ mặt : từ bấy giờ, ai ai cũng trở nên nghi kỵ, lo sợ. Và cuộc sống càng ngày càng trở nên thiếu thốn, bất hạnh.

Nhận thấy tình hình càng ngày càng thoái hóa, một cách tai hại và trở thành bế tắc, các bô lão đã có sáng kiến họp nhau lại, khảo sát một cách tỉ mỉ nguyên nhân của vấn đề. Họ khám phá rằng đầu dây mối nhợ là sự có mặt của bà phù thủy, và họ đã cầm gậy gộc xua đuổi bà ra khỏi xóm làng.

Oái oăm làm sao, bà phù thủy bằng xương bằng thịt đã đi xa rồi. Nhưng lời rỉ tai của bà vẫn còn xẩn vẩn đâu đó, trong tư duy và quả tim của mỗi người. Bà phù thủy vẫn còn nằm vùng, trong mỗi chúng ta và ở giữa chúng ta.

Nếu mỗi ngày, mỗi người không quyết định thay đổi niềm lo sợ của mình thành yêu thương, tha thứ và tin tưởng nhau, chúng ta sẽ suốt đời làm nạn nhân tự nguyện của bà phù thủy đang tìm mọi cách để làm ô nhiễm mối quan hệ giữa người với người. Tên tuổi của bà phù thủy ấy là thiên kiến, hận thù, chia rẽ, bạo động và chiến tranh. Nói tắt một lời, đó là tư duy nhị nguyên phát sinh ra mọi khổ đau cho con người trong lòng cuộc đời và trên từng mảnh đất của quê hương.

Sào huyệt hay là chiến khu của bà phù thủy là đời sống xúc động và tình cảm.

 

* *   *

Để hóa giải bao nhiêu vấn đề chung quanh đời sống xúc động và tình cảm, nghĩa là:

Ngày ngày biến Không thành Có,

Chuyển luân Rác nuôi sống những cánh đồng,

Giữa Sa mạc làm tuôn chảy dòng sông,

Trong Chết chóc vun trồng hạt mầm Sống,

Gieo Thứ tha và xây đáp Đường Hy Vọng...

Chúng ta có thể sử dụng kỹ thuật tâm lý, với bốn bước như sau :

(1)  Xác định môi trường chung quanh hay là nhận diện hoàn cảnh hiện hữu. Để làm công việc nầy, chúng ta cần sử dụng những lối phát biểu càng khách quan chừng nào, càng hay bấy nhiêu : "Tôi thấy ...", "Tôi nghe ...". Ví dụ: "Tôi nghe bạn phàn nàn và phê phán thái độ của tôi ..."

(2)  Đặt tên, hay gọi tên xúc động vừa đang chớm nở và xuất hiện trong nội tâm. Bốn xúc động đầu đàn là Lo, Sợ, Buồn và Giận. Lối phát biểu cần sử dụng trong giai đoạn nầy là : "Tôi cảm ...".

(3) Khám phá, phát hiện nhu cầu cơ bản của mình đang có mặt hay là ẩn nấp, ngụy trang ở bên dưới mỗi xúc động. Sở dĩ tôi buồn, là vì tôi đang cần được nâng đỡ, ủy lạo.

Tôi sợ, là vì tôi cần được an toàn. Tôi lo, là vì tôi cần có phương tiện cụ thể, hữu hiệu để đối phó với những biến cố bất trắc, bất ngờ.

Tôi giận, là vì tôi cần được tôn trọng. Những giá trị và xác tính của tôi cần được người khác nhìn nhận.

(4)  Nêu rõ lời yêu cầu tích cực, cụ thể, nói lên nguyện vọng chính đáng của mình. Thay vì đòi hỏi, cưỡng bức, áp đặt từ bên ngoài, hay là lạm dụng vị trí quyền lực của mình, chúng ta chỉ thỉnh cầu, nghĩa là XIN với một thái độ hài hòa, đồng hành, chia sẻ. Mỗi lần xin, chúng ta biết rằng : kẻ khác có quyền từ chối, tùy vào thực tế và thực tại hiện hữu của họ.

Khi có nhiệm vụ nâng đỡ ai, giúp họ hóa giải xúc động và tình cảm của mình, chúng ta cùng với họ kinh qua bốn giai đoạn vừa trình bày. Từ từ đi tới từng bước một, trong tinh thần cởi mở và trung thực. Thêm vào đó, mỗi lần nói về MÌNH, chúng ta hãy tự xưng là TÔI. Không dùng sứ điệp ngôi thứ nhất, chúng ta sẽ có xu thế phê phán, tố cáo, đổ lỗi cho người khác đang đối diện.

Với điều kiện diễn tả nầy, cơ hồ một dòng sông lưu nhuận, luân chuyển từ cội nguồn đi ra biển cả ... đời sống tình cảm và xúc động sẽ được thoáng thoát, chuyển biến một cách hài hòa tự nhiên, không còn bị ứ đọng, ối đọng và ô nhiễm.

 

* * *

 Trong một cộng đồng, khi mỗi thành viên biết diễn tả rõ ràng nhu cầu của bản thân mình, và đồng thời tôn trọng nhu cầu làm người của mọi thành viên khác, cộng đồng ấy đang dấn bước trên con đường yêu thương và hạnh phúc, hiểu biết và tha thứ. Thiếu lòng thứ tha, bất cứ cộng động nào - tôn giáo, đất nước, xã hội, gia đình ... - sẽ không đúng vững, sẽ không có ngày mai. Thứ tha phải bắt đầu bằng lối nhìn của mỗi người về giá trị tự tại của người anh chị em hai bên cạnh. Dù họ có những hành vi sai trái đến độ nào chăng nữa, dù khuyết điểm đang tràn lan trong tác phong của họ, họ vẫn đáng yêu và cần tôi yêu thương, để họ biết vươn lên làm người. Tôi là Đức Bụt đại trí và đại bi, mang đến cho người ấy con đường giải thoát làm bằng Hiểu Biết và Tình Thương. Tôi cũng là Đức Kitô đang đồng hành với người ấy, để họ có thể SỐNG LẠI, trở thành bất tử và bất diệt.

 

* * *

Hạnh phúc không phải là quả sung từ trên trời cao đột nhiên rơi vào miệng của tôi. Hạnh phúc chẳng bao giờ là tận điểm, có sẵn đó rồi, hoàn toàn, viên mãn. Bao lâu còn mang thân phận và điều kiện làm người, chúng ta còn phải tạo dựng hạnh phúc cho mình và cho người khác. Hạnh phúc là một tiến trình liên tục, do tôi làm nên, với hai bàn tay, nước mắt và xương máu cụ thể, trong mỗi phút giây của cuộc đời. Hẳn thực, khi tôi tạo điều kiện cho kẻ khác hạnh phúc, chính tôi cũng gặt hái mùa màng hạnh phúc, cho bản thân và cho cuộc đời.

Khi phân tích những quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa hai người, nhà tâm lý Eric BERNE đã khám phá ra sự hiện hữu của ba bộ mặt trong mỗi con người chúng ta :

Bộ mặt thứ nhất là NGƯỜI CHA MẸ, có phần vụ hướng dẫn và soi sáng, nâng đỡ và ủy lạo những ai cùng chung sống trong môi trường;

Bộ mặt thứ hai là NGƯỜI TRẺ EM, có phần vụ học hỏi thường xuyên và sống hạnh phúc với những người đang cùng có mặt trong xã hội;

Bộ mặt thứ ba là NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH, có phần vụ đồng hành và chia sẻ với mọi người anh chị em đồng bào, đồng hương, đồng loại.

Bên cạnh ba bộ mặt tích cực và xây dựng ấy, ba bộ mặt tiêu cực khác cũng đang đe dọa, khống chế con người và quả tim của chúng ta :

Thứ nhất là NGƯỜI CHA MẸ áp chế, hay là bao che quá đáng ;

Thứ hai là NGƯỜI TRẺ EM phản loạn hay là lệ thuộc và bị động ;

Thứ ba là NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH quá duy lý, khô khan lạnh lùng như cái máy vô hồn.

Sơ đồ của E. BERNE sau đây (trang tiếp) cho chúng ta hiểu rõ, và ngày ngày đánh thức chúng ta : Hai con người ÁNH SÁNG và BÓNG TỐI đang tranh giành ảnh hưởng trong chính quả tim mỗi người. Trong tinh thần và chiều hướng ấy, hạnh phúc là CHO. Khi cho bất kỳ một cái gì, chúng ta nhận lại hạnh phúc trong lòng mình. CHO là một quyết định, một chọn lựa, cần được thực thi từng ngày, từng giờ.

Làm người, chúng ta, tự bản chất, là một sinh vật rất giàu có. Chúng ta có rất nhiều điều để trao tặng cho người khác, bắt đầu từ một nụ cười, một liếc nhìn đầy yêu thương, một bàn tay tiếp xúc, hỏi han, xoa dịu, một lời nói nâng đỡ an ủi, khích lệ.

"Ánh mắt em là cả một Bầu Trời,

Bàn tay em huyền nhiệm thấu tầng mây,

Bước chân em gieo hạnh phúc mỗi ngày,

Quả tim em: Nguồn suối không cạn vơi!"

* * *

Em trọng đại, vì em là tất cả :

Là Mẹ, là mảnh đất của Quê Hương,

Một Khu vườn ương lại giống Tình thương,

Xây non sông làm tươi đẹp khóm phường

* * *

Em là Nước tưới Ngày Mai, Tuổi Trẻ,

Đem rừng Xanh phủ hết Đất Tang Thương,

Mang Mặt Trời chiếu rạng vùng tăm tối,

Hạt Tình Người gieo vãi khắp mười phương"

Để kết thúc, tôi xin chia sẻ một câu chuyện. Hôm ấy, trong lúc soạn bài nói chuyện nầy, tôi đã trải qua một giấc mơ êm dịu. Trước mặt tôi, từ trên cao rơi xuống bốn con búp bê hoàn toàn giống nhau, trong mọi chi tiết. Mỗi con đều có mũ đỏ, áo trắng, quần xanh, đôi dép màu vàng mặt trời. Bỗng có một tiếng nói từ trên vọng xuống :"Này con, hãy phân biệt cho bằng được cái gì làm nên nét khác biệt cơ bản, giữa bốn con búp bê ở trước mặt con".

Tôi có sáng kiến đi ra vườn, kiếm một cọng cỏ vừa dài, vừa dẻo. Rồi tôi đút cọng cỏ vào lỗ tai của con búp bê thứ nhất. Tôi nhích, nhích, và nhích ... Cọng cỏ thoát ra khỏi lỗ tai phía bên kia. Tôi cũng làm như thế với con búp bê thứ hai. Lần nầy cọng cỏ thoát ra khỏi lỗ miệng của nó. Với con thứ ba, cọng cỏ đi xuống quả tim, bị bế tắc và dừng lại ở đó. Với con sau cùng, tôi nhích lui nhích tới cọng cỏ, một cách rất tế vi và ý nhị. Thế rồi, quả tim nó bắt đầu thổn thức, phập phồng. Tôi tiếp tục nhích thêm. Đôi mắt nó lóe sáng như hai đốm lửa. Tôi vẫn tiếp tục nhích cọng cỏ. Hai tay búp bê bắt đầu cử động. Đôi chân di chuyển về phía trước. Con búp bê đứng dậy, bước tới. Nó Làm Người.

Nếu tôi được phép đem cọng cỏ nhích vào tai các bạn, các bạn sẽ đáp ứng thế nào ... giống con búp bê nào đây ?

Chú thích

1. BERNE E. Analyse transactionnelle et Psychothérapie, Paris 1971.

2. STEINER C. Le conte chaud et doux des chaudoudoux, Illustré par PEF, InterEditions, Paris 1984.

3. GOLEMAN D. Emotional Intelligence - Bantam Books, New York, 2 tomes 1995, 1998, 880 tr.

4.  NGUYỄN Văn Thành - Trao Đổi và tiếp xúc - Tài liệu in Rônêo. Hè 1994, 147 tr.

Tác giả Gs. Nguyễn Văn Thành

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!