Vào một
buổi sáng định mệnh, tôi đã gặp Sơ Út Mười Thương. Sau thánh lễ, tôi thấy một Sơ
đang đứng mân mê chiếc điện thoại cùi bắp, vẻ đơn sơ thánh thiện của Sơ dòng
được thể hiện qua nét vụng về của những thao tác trên cái máy điện thoại di
động. Sơ đang mò số để bấm gọi nhờ đứa cháu điều khiển từ xa một chiếc xe grab
đến, chở Sơ đi chữa bệnh. Đang lúc sơ bối rối tìm lại số điện thoại của đứa
cháu, tôi ngỏ lời:
-Sơ ơi, Sơ đi đâu ? lên xe
con chở đi !
Sơ nhìn tôi với chút ngạc
nhiên nhưng cũng còn lưỡng lự chỉ biết tôi là một tín hữu mới tham dự thánh lễ
sáng nay. Tôi tiếp tục mở lời:
-Con là một thầy dòng… Sơ cứ
an tâm.
Cuối cùng, tôi cũng đã
thuyết phục Sơ lên xe.
Sau một hồi trao đổi, tôi
được biết, trước khi đi tu, Sơ là một tân tòng. Vốn bản tính hay tò mò, tôi tiếp
tục “tấn công” và có câu chuyện thú vị hầu các bạn.
Sơ là con út trong một gia
đình gồm 9 người con, thế nên, Sơ được gọi bằng một cái tên rất “quê”: Út Mười.
(Tôi đã gọi Sơ bằng một danh xưng của riêng mình: chị Mười Thương). Bố mẹ chị
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất khô cằn sỏi đá của vùng biển nóng Phan Thiết.
(Những chi tiết cụ thể này đã được sự cho phép của đương sự). Cả gia đình đều đã
đăng ký Pháp Danh tại chùa. Từ đó, chúng ta hiểu phần nào lòng sùng đạo của họ.
Chính khát vọng đi tìm chân lý mà hạt giống đức tin khả dĩ sẽ sinh hoa kết trái
nơi gia đình chị.
Năm lên 7 tuổi, bé Út Mười
đang theo học lớp 2 tại một trường gần nhà. Hằng ngày đi học, bé đều đi ngang
qua nhà xứ ở gần đó. Cứ mỗi chiều của những ngày tháng 5 (tháng Hoa kính Đức
Mẹ), sau khi học xong, bé không về nhà ngay nhưng ghé lại nhà xứ xem các bạn tập
dâng hoa. Những màn múa sống động ấy đã tạo trong ký ức của bé những hình ảnh
đẹp về một đạo có nhiều sinh hoạt sống động. Chưa hết, vào dịp lễ Giáng sinh, bé
cũng trốn nhà và rủ các bạn đi xem các cha làm lễ mà trong trí tưởng tượng của
bé các ngài là vua, còn mọi người là thần dân hằng tuân lệnh vua. Còn trong hang
đá lại có một Đứa Bé Trai đang giang tay dường như cố mời gọi mọi người đến với
mình không biết để làm gì ?!!! Sau những lần trốn nhà hay bỏ cơm không xin phép,
bé đã chịu những trận no đòn từ tay người bố nghiêm khắc nhưngđiều đó không cản
trở bé thường lui đến sân nhà xứ để vui đùa với chúng bạn.
Thế rồi, thời gian vụt qua
nhanh, sự đơn sơ hồn nhiên nơi bé Mười đã được thay da đổi thịt bỗng trở thành
một thiếu nữ với mảnh bằng tốt nghiệp trung học trong tay, chị được giới thiệu
vào một xí nghiệp để quản lý việc thu hoạch lúa vào thời bao cấp. Những người
nghèo đến xay lúa, chị chỉ thu đủ tiền xăng dầu cho máy xay, các cơ sở tôn giáo
xay lúa số lượng nhiều cũng được chịtính với giá phải chăng. So sánh với những
người cùng làm chức vụ như chị vào thời đó, họ đã giàu to, thế mà chị vẫn không
khá lắm chỉ đủ trang trải cho bố mẹ và bản thân. Chị không hề biết Tin Mừng về
Chúa Giêsu nhưng lại sống như Ngài, nghĩa là chấp nhận sống đơn sơ đạm bạc để
chịu sự khốn khó mà làm cho kẻ khốn khó bớt phần khốn khổ; thật hợp với lời của
thánh Phaolô đã nói về Đức Kitô: “Người vốn giàu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở
nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên
giàu có” (II Cr 8,9b).
Cũng trong thời gian này,
chị đã quen biết và gần gũi với các Sơ dòng Đa minh mà sau này chị xin gia nhập
đạo. Các Sơ đã giới thiệu chị đến cha xứ để theo lớp dự tòng. Sau vài tháng theo
học, chị đã chịu cám dỗ nặng nề, muốn tháo lui vì đối với chị, theo Đạo như một
cách tỏ ra bất hiếu với Cha Mẹ, Ông Bà…Mặc dù, chị đã được dạy nhiều về việc
theo Đạo nhưng vẫn giữ truyền thống thảo hiếu với Bậc tổ tiên.Trong lúc nội tâm
phải giằng co giữa bên chữ hiếu và bên đức tin, cha xứ lại đòi buộc cha mẹ phải
chấp nhận việc theo đạo của mình,chị đã cầu nguyện với Chúa nhiều nhưng vẫn cảm
thấy bất lực, dầu vậy, chị phó thác tất cả cho Chúa.
Quả thế, đường lối của Chúa
thật nhiệm mầu, trong lúc chị không dám nói với Bố mẹ về sự thật này thì Chúa đã
dùng miệng người mẹ mà nói với chồng:
-Ông coi, con út hình như nó
theo đạo nhà thờ đó ông. Tôi thấy mỗi tối nó cứ ngồi rù rì một hồi lâu rồi mới
nằm ngủ, sáng sớm ra còn đi đến nhà thờ ông cha nữa.
-Phải không Út ? Ông bố
nghiêm giọng hỏi.
-Dạ phải, mẹ nói đúng đó, bố
ạ.
-Mai dắt tao lên nhà thờ coi
cái ông cha dạy cái gì mà mày mê theo như điếu đổ vậy.
Sau khi tham dự một buổi
học dự thính, ông bố dõng dạc tuyên bố với con:
-Tao thấy mày theo đạo này
là Chân Lý đó, mai tao cũng theo.
Chị Mười đi từ ngạc nhiên
này đến ngỡ ngàng khác và thầm cảm ơn Chúa trong lòng. Ông bố nhất quyết đến gặp
cha xứ xin học đạo, tuy nhiên, cha xứ trả lời rằng ông cần đợi khóa sau vì khóa
này sắp xong rồi.
Thế là ông bố vẫn chấp nhận
chờ đợi khóa sau học đạo. Ông đã học được 2/3 thời gian qui định thì bỗng ngã
bệnh nặng, bác sĩ báo ông bị ung thư giai đoạn cuối. Thế rồi, ông xin phép cha
xứ nghỉ luôn việc học đạo. Thấy thiện chí của ông lão nhà quê, cha cho phép ông
lãnh các phép trước thời hạn, ông vui vẻ dọn mình. Sau đó, ông lại khỏe hẳn như
nhận được một phép lạ nhãn tiền nhờ việc Chúa tăng sức qua Bí tích Xức dầu
thánh. Ông sống thêm 3 tháng nữa, rồi được Chúa gọi về trong sự thanh thản và
bình an. Sau đó, là cuộc trở về đầy ngoạn mục của người anh Cả và của người Mẹ.
Có thể nói, những cuộc trở
về này càng làm tăng xác tín của chị vào Chúa. Từ đó, chị quyết định theo đuổi
con đường tu trì, nhưng nguyện vọng ấy không được các Sơ dòng Đa minh đón nhận
ngay vì theo luật qui định một tân tòng muốn gia nhập dòng tu phải sống 10 năm ở
ngoài đời. Chị đã chấp nhận điều này như thánh ý Chúa muốn.
Sau khi cha chị mất, chị tìm
việc làm trên Sài gòn để gởi tiền lo cho mẹ già ngoài quê. Có một chi tiết khá
thú vị trong giai đoạn này mà tôi không thể bỏ qua vì nó nói lên tư chất của một
cô gái chân quê chân chất đến lạ lùng. Hành trang mà người mẹ cho chị lên Sài
gòn là 2 giỏ trái cây mãng cầu để bán kiếm chút tiền hầu trang trải nơi đất
khách quê người, và với một lời khuyên duy nhất: “Con lên Sài gòn đi đâu nhớ tìm
ông xích lô lớn tuổi mà nhờ chứ bọn thanh niên chở đi là nguy hiểm đó”. Thế rồi,
vừa đặt chân xuống đất ồn ào và náo nhiệt này, chị thấy một đội xích lô đứng đón
khách, chị chọn người lớn tuổi nhất theo lời khuyên của mẹ. Chị nói:
-Chú ơi, chở con đến chợ để
con bán 2 giỏ trái cây này để kiếm chút tiền.
-Cháu muốn đến chợ nào ? Chú
xích lô dò hỏi.
-Cháu tưởng chú biết chợ đó
rồi chứ ?
-Trời ơi, đất Sài gòn bao
nhiều cái chợ mà biết.
Thế rồi, chú xích lô cũng
chở chị đến một chợ gần đó rồi giới thiệu người bán giúp. Sau đó, chú lại hỏi:
-Bây giờ, cháu mmuốn đi đâu
?
-Chở cháu đến một xí nghiệp
may để xin việc.
Hỏi thăm qua lại mới biết
chú này cũng thuộc người công giáo, chú đã cho ở tạm tại tư gia đến khi xin được
việc nhờ một người con của chú này giới thiệu.
7 năm lăn lộn bươn chải nơi
đất khách, tình yêu đã hóa đất lạ thành quê hương. Thời gian “thanh luyện” đã
xong, chị cảm thấy cần tìm đến một nhà dòng để theo đuổi khát vọng sâu xa mà
Chúa đã đặt trong lòng chị từ ngàn xưa. Chị đã tìm đến dòng Cát Minh nơi thánh
Têrêsa HĐGS, vị thánh bổn mạng của chị đã tu và nên thánh, tại Sài gòn; đồng
thời, thánh nữ cũng là thánh bổn mạng của chị. Có thể nói, để có một quyết định
nhanh chóng như vậy, vì ngay từ lúc theo đạo chị đã nghiền ngẫm nhiều lần về tác
phẩm Một Tâm Hồn của chị thánh. Có một chi tiết nhỏ nhưng nói lên tâm tình yêu
mến của chị đối với chị thánh.
Một ngày kia, chị gặp một
người Công giáo bán bánh mì, họ lại xé từng tờ tác phẩm Một Tâm Hồn mà gói bánh
mì bán cho khách. Thấy xót xa và xúc phạm nặng nề, chị đề nghị bà chủ để chị mua
một mớ giấy khác hầu đổi lấy cuốn sách quí ấy, bà này đồng ý. Chị mang về đem
photocopy phần đã bị xé đi rồi nhờ người đóng lại thành tập sách. Từ đó, nó là
cuốn sách gối đầu giường của chị. Một cuốn sách với hai màu giấy trông có vẻ
nham nhở kia nhưng lại gợi hứng cả một bầu trời thiêng liêng trong hành trình
tâm linh của chị.
Chị tưởng mọi chuyện sẽ xuôi
xắn khi đến tu viện của thánh Têrêsa tại Sài gòn, nhưng họ hẹn lại vì nhà dòng
chưa nhận dự tu mới. Chị đến dòng Phanxicô ở Thủ Đức để tĩnh tâm và cầu nguyện
hầu biết ý Chúa muốn: mình tu ở đâu. Trong những ngày tĩnh tâm chị bị
cuốn hút bởi gương lành của thánh nữ Clara, chị hỏi cha giảng phòng rằng tu viện
thánh Clara ở đâu. Cha trả lời: Con ra đầu cổng nhà dòng, bước sang bên kia
đường là tới chỗ cần tìm. Bỗng dưng trong lòng chị cảm giác một sự bình an lạ
lùng và thầm cảm tạ Chúa vì như mọi sự đều được chuẩn bị sẵn sàng. Chị đã được
Mẹ Giáo tập nhận vào với một lời an ủi: Dòng chỉ nhận dự tu không quá 25 tuổi,
nhưng trường hợp của chị đã 28 tuổi, khá đặc biệt nên được miễn trừ. Từ đó, chị
cảm nhận lòng Chúa thương chị nên ra công sống tốt đáp lại tình Người. Đến nay,
chị đã sống được 24 năm trong nhà dòng, với khả năng điều dưỡng và may đồ phục
vụ cho chị em, chị đã chăm sóc và “vá khâu” nhiều tâm hồn tan vỡ tìm đến với
chị. Và dần dà, chị nhận ra Chúa ban cho mình một đặc sủng: người có tài an
ủi. Chị đã trở thành tiếng nói chung cho những bên đối lập, cầu nối qua lại
giữa các thành viên trong dòng.
Cảm ơn chị đã đi qua cuộc
đời tôi như làn gió mát làm dịu hẳn những mưu tính theo kiểu con người nơi tôi,
rằng Chúa có chương trình cho mỗi người. Điều còn lại, hãy để cho Chúa
bước vào cuộc đời chúng ta, nơi đó, mọi khô cằn sẽ biến thànhhồ ao, hoang địa
khô khan nên nguồn suối nước. Và rồi, Chúa sẽ làm cho mọi sự sinh ích với những
ai quyết tâm theo Ngài.
EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.