Như chúng ta đã biết Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn một sửa đổi mới về đoạn
2267 của Sách Giáo Lý Công Giáo, theo đó “đã xuất hiện một sự hiểu biết mới về ý
nghĩa của hình phạt tử hình do nhà nước áp đặt” theo đó “án tử hình là không thể
chấp nhận được”.Quyết định này được công bố bởi Bộ Giáo Lý Đức Tin trong “Thư
gửi các Giám mục” đề ngày 01 tháng 08 năm 2018 với chữ ký của Đức Hồng Y Tổng
trưởng, Luis Francisco Ladaria. Việc sửa đổi này không đồng nghĩa với việc đi
ngược lại truyền thống Huấn quyền của Giáo hội nhưng là sự tiến triển nhằm đạt
đến sự hiểu biết mới thích hợp cho thời đại chúng ta. Ở đây, chúng ta không bàn
đến tiến trình lịch sử hình thành số Giáo lý này nhưng đưa ra vài suy nghĩ xoay
quanh vấn đề án tử hình liên quan đến phẩm giá của con người.
Có thể nói, việc bãi bỏ hoàn toàn án tử hình là một kết quả suy tư dựa trên tiền
đề căn bản của việc tôn trọng sự sống thánh thiêng của con người, rằng: sự
sống con người cần được tôn trọng từ khi thụ thai cho đến chết tự nhiên; mà
án tử hình là một việc giết người do tác động từ phía con người. Điều này đi
ngược lại với xác tín của Giáo hội: Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử.
Thật ra, từ trước đến nay các chính quyền dân sự đều thi hành án tử hình nhân
danh công bằng, công ích và trật tự xã hội. Qua nhiều triều đại Giáo Hoàng, các
ngài đã lên tiếng bảo vệ sự sống cho phạm nhân nhưng còn nhân nhượng do giới hạn
về việc bảo vệ an ninh các quốc gia. Ngày nay, các thiết bị hiện đại tạo nên
những hệ thống tinh vi nhằm kiểm soát hoạt động của mọi người cách riêng các
phạm nhân thì việc các tù nhân không thể tự tung tự tác mà sát hại dân lành đã
được khắc phục tối đa; đồng nghĩa với việc án tử hình trở nên không còn cần
thiết nữa mà nói mạnh mẽ như lời của Đức Phanxicô: án tử hình không thể chấp
nhận được; vì lẽ, nhân phẩm của người đó không bị mất ngay cả đương sự đã
phạm thứ tội rất nghiêm trọng.
Quả thật, con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là luôn mang
trong mình “mầm thiện” cần được phát huy tối đa trong ơn nghĩa Ngài. Mầm thiện
ấy có thể ví như một loại bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi cho đến khi sự
sống ấy không còn nữa ! Có thể nó đang bị một lớp tro trần tục, cặn bã vinh hoa
nào đó phủ lấp nhưng vẫn hy vọng một ngày ngọn gió Thần Linh cuốn đi để rồi mầm
thiện lại lan tỏa sức nóng giúp đương sự trở về với chính lộ. Mầm thiện ấy giờ
đây được cụ thể hóa qua hành vi thú tội của bao tội nhân, điều này chính mỗi
người chúng ta hơn một lần đã mục kích.
Có thể nói, bãi bỏ án tử hình ví như trao cho đương sự một chiếc phao cứu tử,
đây là tia hy vọng cuối cùng khả dĩ giúp phạm nhân bừng tỉnh mà trân quý sự sống
và quay đầu vào bờ. Thật vậy, với những người đã bị tuyên án tử hình, họ sống
trong lo sợ không biết cái chết đến lúc nào; có người sống quãng đời còn lại với
sự tru tréo hay căm hận cuộc đời, có kẻ trở nên điên loạn khi tưởng tượng đến
phát súng cuối cùng vào một ngày đen tối…chung qui, họ sống tiêu cực và bất cần.
Còn nếu, họ được giảm án thì đây là một niềm hy vọng lớn lao không phải là hy
vọng để tìm cách tẩu thoát trong tương lai nhưng là được sống còn dù phải mang
tù tội. Biết đâu với ân huệ ấy lại giúp họ cải tạo cuộc sống đúng với danh nghĩa
của nhà tù là nơi cải tạo các phạm nhân. Hơn lúc nào hết, lời khẳng định của
thánh Phaolô: nơi đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ơn sủng càng chứa chan gấp bội,
càng trở nên xác thực hơn !
Chúng ta không có quyền phán xét ai trước kỳ hạn và lên án tử cho bất cứ người
nào, chính Chúa sẽ phân biệt đâu là “tên trộm dữ” còn đâu là “tên trộm lành”.
Luật pháp chỉ dựa trên chứng cớ xác thực của người đời mà luận án cách nào đó,
nhưng chính Thiên Chúa mới dò thấu lòng dạ con người để “tuyên dương” tên trộm
lành mặc dù hắn một đời lầm lỗi.
Chưa hết, xét về mặt tâm lý, việc lên án tử hình cho một ai đó có thể tạo nên
một cảm giác hả hê nơi con người, rằng hắn đáng phải chết, sự ác phải được tiêu
diệt hoàn toàn. Tuy nhiên, chúng ta không nên đồng hóa tội lỗi với tội nhân. Sự
ác và tội lỗi đều bị lên án bằng bất cứ hình thức nào, song tội nhân hay những
kẻ thù của ta cần được tha thứ. Đó là cách sống của người tỏa chiếu ánh sáng Tin
Mừng. Chính khi tin tưởng vào cách hành động nhiệm mầu của Thiên Chúa mà không
những chúng ta để cho người anh em của mình một con đường giải thoát rồi chính
chúng ta cũng được hưởng lòng thương xót của Ngài; vì quả thật, không ai là công
chính trước mặt Chúa.
Như thế, một lần nữa từ việc bãi bỏ án tử hình mà Giáo hội qua Đức Phanxicô,
người kế vị thánh Phêrô, đã sống đúng vai trò ngôn sứ nhằm nói lên ý muốn cứu độ
của Thiên Chúa. Mặc dù, vấn đề này thuộc lãnh vực xã hội không mang tính quyết
định nhưng với vai trò định hướng hầu phát triển những gì liên quan đến đời sống
toàn vẹn của con người, Giáo hội không ngừng cổ võ kêu gọi những nhà lãnh đạo
các quốc gia đọc ra những dấu chỉ thời đại ngõ hầu nỗ lực xây dựng nền văn hóa
sự sống và tôn trọng phẩm giá con người.
EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.