HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
LỄ
VỌNG PHỤC SINH C
St
1,1-2,2 ; Xh 14,15-15,1a ; Is 54,5-14
Ed
36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 ; Lc 24,1-12
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 24,1-12
(1)
Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo
dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. (2) Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ.
(3) Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. (4)
Họ còn đang phân vân, thì kìa hai người đàn ông y phục sáng chói,
đứng bên họ. (5) Đang lúc các bà sợ hãi cúi gầm xuống đất, thì hai
người kia nói : “Sao các bà lại tìm Người sống ở giữa kẻ chết ? (6)
Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều
Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, (7) là Con Người phải
bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi
ngày thứ ba sống lại. (8) Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức
Giê-su đã nói. (9) Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một
và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. (10) Mấy bà nói
đây là bà Ma-ri-a Mácđala, và bà Ma-ri-a mẹ ông Giacôbê. Các bà khác
cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông đồ như vậy. (11) Nhưng
các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin. (12) Dầu vậy, ông Phê-rô
cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông chỉ thấy những khăn
liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về những sự việc đã
xảy ra.
2. Ý CHÍNH : Bài
Tin mừng hôm nay tường thuật biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su theo thứ
tự như sau:
- Sự kiện mồ trống : Ngày từ sáng sớm ngày thứ nhất, mấy người phụ
nữ đã đi ra mộ để xức dầu thơm cho Đức Giê-su. Tới nơi, họ thấy tảng
đá che ngoài cửa mộ đã được lăn sang một bên, nhưng không thấy xác
Thầy trong mộ.
- Sứ điệp Phục
sinh : Họ đang thắc mắc thì có hai thiên
sứ hiện ra cho biết Đức Giê-su không còn ở trong mộ của kẻ chết nữa,
nhưng đã sống lại, đúng như Người đã nói tại Ga-li-lê.
- Tông đồ cứng
tin : Các bà vội trở về báo tin cho
Nhóm Mười Một những điều mới xảy ra. Nhưng các ông không tin và coi
là chuyện lẩn thẩn.
- Phê-rô kiểm
chứng : Tuy vậy, để biết rõ thực hư,
Phê-rô cũng chạy ra mộ và đã thấy những khăn liệm còn để lại. Ông
trở về nhà và rất ngạc nhiên về những sự việc vừa xảy ra.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1-3 : + Ngày
thứ Nhất trong tuần : Từ ngày
Đức Giê-su phục sinh, ngày thứ Nhất hôm nay sẽ trở thành ngày Hưu lễ
của Ki-tô giáo, thay cho ngày thứ Bảy (Sabát) của Do Thái giáo, và
gọi là Chúa nhật nghĩa là Ngày của Chúa. + Các bà đi ra mộ : Các
bà này gồm bà Ma-ri-a Mácđala, bà Gio-anna, và bà Ma-ri-a mẹ ông
Giacôbê và mấy bà khác nữa (x. Lc 24,10). + Mang theo dầu thơm đã
chuẩn bị sẵn : Khi ra
thăm mộ, các bà đem theo dầu thơm để hoàn tất việc mai táng Chúa
Giê-su, đã được ông Giôsép Arimathê vội vã thực hiện vào chiều thứ
Sáu trước ngày Sa-bát (x. Mc 15,42.47). +
Họ không thấy thi hài Chúa Giê-su
đâu cả : Đây là
lần thứ nhất Tin mừng Lu-ca dùng từ “Chúa Giê-su” để nhấn mạnh tước
hiệu mới của Người là “Chúa”. Về sau sách Công vụ sẽ nhiều lần
dùng từ này để gọi Đức Giê-su (x. Cv 1,21; 8,16; 15,11).
- C 4-5 : + Phân vân : Vì
không thấy thi hài Đức Giê-su trong mộ nên các bà phân vân lo lắng không
biết người ta đã đem xác Thầy đi đâu (x. Ga 20,2). + Hai người đàn
ông y phục sáng chói đứng bên họ : Sau này
các bà khẳng định đó là hai vị thiên thần (x. Lc 24,23). + “Người
sống” : Giờ đây Đức Giê-su trở thành “Người
sống”, đúng như Lời Người đã nói (Ga 11,25).
- C 6-7 : + Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi : Thiên
thần bảo cho các bà biết về mầu nhiệm Đức Ki-tô đã từ cõi chết
sống lại (x. Rm 6,9). Từ đây Người mở ra một con đường sống cho những
kẻ đã an giấc ngàn thu (x.1 Cr 15,20-26). + Hãy nhớ lại điều
Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê : Đối với Lu-ca, toàn bộ mầu
nhiệm vượt qua phải được
hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 9,51), để Giê-ru-sa-lem trở thành nơi
xuất phát thông điệp ban ơn cứu độ (x. Lc 24,49). Do đó, trong sách Công
Vụ Tông Đồ của Lu-ca, các Tông đồ đã được Đức Giê-su Phục Sinh trao cho
sứ vụ làm chứng nhân cho Người bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem (x. Cv 1,8).
- C 12 : +
Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ : Dù
không tin Thầy sống lại, nhưng Phê-rô cũng đi kiểm chứng thực hư. Kết
quả ông chỉ nhìn thấy khăn liệm (x. Lc 24,12a). Còn Tin mừng Gio-an thì
thuật lại cuộc chạy đua ra mộ giữa hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an (x. Ga
20,3-4).
4. HỎI ĐÁP :
HỎI 1 : Đức Giê-su được môn đệ liệm xác theo
phong tục Do thái ra sao ?
Đáp : Việc
liệm xác Đức Giê-su được thực hiện theo phong tục Do thái gồm các
công đoạn như sau : Trước hết là tắm xác, nghĩa là lau chùi các vết
máu cùng các vết nhơ khác trên cơ thể Người. Sau đó Đức Giê-su được
đặt trên một tấm khăn vải trắng, rồi được bôi một loại dầu thơm đắt
tiền (x Ga 12,3-7), được chế biến từ nhựa cây cam tùng và được gọi là
mộc dược. Dầu thơm được bôi trên toàn thân Người nhiều lần cho ngấm
dần vào da thịt để bảo quản xác khỏi bị hư hoại trong một thời gian
dài. Rồi xác Người được quấn lại bằng băng vải từ đầu đến chân (x.
Ga 19,40). Cuối cùng xác Người được môn đệ an táng trong một ngôi mộ
mới đục sâu trong đá và các ông làm một phiến đá lớn làm của che kín
phía ngoài mộ (x. Ga 19,41-42).
HỎI 2 : Tại sao các môn đệ lại phải vội vã an táng Đức Giê-su ?
ĐÁP : Sở
dĩ có việc mai táng vội vã là do Luật Mô-sê qui định: cấm mai táng
vào ngày Sabát, và xác tử tội đang bị treo trên thập giá phải được
hạ xuống trước khi mặt trời lặn (x. Đnl 21,22-23). Đức Giê-su chết lúc
3 giờ chiều áp ngày Sabát, nên thời gian còn lại từ 3 đến 6 giờ là
quá ngắn, không đủ để làm đủ các công đọan của việc mai táng, nên
các môn đệ phải làm cách vội vã cho kịp thời gian Luật cho phép.
HỎI 3 : Sự phục
sinh của Chúa Giê-su có giống sự phục sinh của các người đã chết và được Người
cho sống lại không ?
ĐÁP :
Sự Phục sinh của Đức Giê-su không phải là được hồi sinh trở
về với cuộc sống trước khi chết, giống như các trường hợp của chàng thanh niên
con trai bà goá thành Naim, bé gái 12 tuổi mới chết đang nằm trên giường, hay
như ông La-da-rô bạn thân của đức Giê-su đã chết chôn trong mồ 4 ngày được Người cho sống lại. Cả ba trường
hợp này, người chết đều sống lại, nhưng sự sống lại này chỉ là trở lại với đời
sống cũ trước khi chết. Nghĩa là họ vẫn còn nằm dưới quyền lực của sự chết, và
đến một ngày nào đó họ vẫn phải chịu chung số phận của mọi người “là cát bụi sẽ
về với cát bụi”.
Trường hợp phục sinh của Chúa Giê-su lại hoàn toàn khác hẳn.
Quả thực, Người đã chết, nhưng Ngài đã phục sinh, nghĩa là Người hoàn toàn chiến
thắng sự chết, Người không sống lại để sống thêm một thời gian rồi chết lại. Sống
lại đối với Chúa Giê-su nghĩa là từ đây Người đón nhận sự sống mới sung mãn đến
độ sự chết không thể chi phối được Người nữa; cũng như không một định luật tự
nhiên nào có thể chi phối được Người nữa. Cụ thể là vào buổi chiều ngày Thứ Nhất
trong tuần sau khi từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su đã đến với các môn đệ trong
khi cửa phòng đóng kín vì sợ người Do thái. Đức Giê-su đã nói chuyện với họ, ăn
uống trước mặt họ. Một vài người trong bọn còn được sờ vào vết đinh ở bàn tay
bàn chân và vết đâm ở cạnh sườn Người, giống như sờ một người đang sống chứ
không phải một bóng ma người chết. Đó chính là sự sống lại mà các môn đệ Đức
Giê-su đều cảm nghiệm được mỗi lần Người hiện ra với họ.
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI
CHÚA : “Sao các bà lại tìm Người Sống
ở giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa, nhưng đã
trỗi dậy rồi” (Lc 24,5-6).
2. CÂU CHUYỆN :
1) PHIM
“CHIẾC CẦU SÔNG QUAI” : SỰ HỒI SINH TINH THẦN
Cuốn
phim “Chiếc cầu sông Quai” kể về một câu chuyện đã xảy ra trong thời Đệ Nhị Thế
Chiến. Trong khi giao chiến, một số quân nhân đồng minh đã bị quân Nhật bắt làm
tù binh, và được mang tới vùng biên giới giữa Miến Điện và Thái Lan, để làm
công việc lao động khổ sai: xây một tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí chiến
tranh cho quân Nhật. Cuộc sống ở trại tù này rất khắc nghiệt: Mỗi ngày tù binh
phải làm công việc xẻ đá để làm đường trên cầu sông Quai, dưới cái nắng nóng giống
như bên lò lửa. Họ bị bọn cai tù Nhật đối xử tàn tệ và đến lượt họ lại biến thành
những kẻ độc ác, đối xử với bạn tù bằng luật rừng, trộm cắp đồ ăn, nghi kỵ đánh
lộn và chém giết nhau, nhất là sẵn sàng chỉ điểm cho bọn cai tù khi có ai muốn
vượt ngục
Nhưng rồi trong số tù nhân trên có hai người là bạn thân
đã hình thành một nhóm người thay vì dùng thời gian nghỉ để bài bạc thì đã họp
nhau chia sẻ Lời Chúa. Nhờ nhóm học hỏi Kinh Thánh này, mà các bạn tù đã dần dần
khám phá ra có Đức Ki-tô đang hiện diện giữa họ. Người luôn thấu hiểu và sẵn
sàng cảm thông với nỗi đau của họ, bởi vì xưa Người cũng đã từng trải qua những
nỗi đau khổ, từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, bị môn đồ phản bội, bị kẻ thù
đánh đòn và sau cùng chịu chết cách nhục nhã trên cây thập tự. Từ đó, các tù
nhân không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man tàn khốc, không
còn làm tay sai chỉ điểm cho kẻ thù, không còn trộm cắp lẫn nhau… thay vào đó đối
xử với nhau bằng tình huynh đệ, thể hiện qua việc cầu nguyện và quan tâm giúp đỡ
lẫn nhau. Từ đó trong trai tù, bầu khí vui tươi đã dần dần thay thế bầu khí ngột
ngạt căng thẳng. Sự biến đổi trong trại tù “cầu sông Quai” chính là một phép lạ,
khiến các tù nhân tin tưởng đoàn kết giúp đỡ nhau thay vì nghi kỵ thù ghét làm
hại lẫn nhau. Sự biến đổi này là sự sống lại, giống như mầu nhiệm Đức Giê-su từ
cõi chết trỗi dậy.
2) NIỀM TIN VỀ SỰ SỐNG ĐỜI SAU CỦA MỘT SỐ LÃNH TỤ NỔI
TIẾNG :
Hầu như
mọi người, mọi dân tộc trên thế giới đều tin có sự sống vĩnh hằng sau cái chết,
ngay cả những người đã từng khẳng định mình không theo một tôn giáo nào cũng
tin như thế.
Ngày 19 tháng 9 năm 1987, nhân khi tiễn Đức Giáo
hoàng Gio-an Phao-lô II khi kết thúc chuyến viếng thăm Hoa kỳ, Phó Tổng
thống Bush đã kể lại câu chuyện về Chủ tịch Trung Quốc là Mao Trạch
Đông mà ông Bush đã có dịp gặp gỡ trước khi ông này chết. Trong lần
ấy, Chủ tịch Mao đã tâm sự với ông Bush như sau : “Tôi
sắp sửa về Trời. Tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”. Còn Tổng
thống Míttơrăng (F. Mitterand) của nước Pháp thì trong mấy ngày cuối
đời đã trả lời về cái chết với phóng viên của một tờ báo như sau:
“Nếu có Chúa, thì tôi tin rằng Người sẽ nói với tôi: Cuối cùng thì
anh cũng đã đến đích. Thôi mau vào đi !”. Ngoài ra, Chủ tịch HCM
cũng đã gián tiếp bày tỏ niềm tin vào một cuộc sống trong thế giới
khác bên kia cái chết, khi trong chúc thư có đoạn viết như sau: “Tôi
sắp về với cụ tổ Mác Lê”...
3) TẦM QUAN TRỌNG CỦA MẦU NHIỆM PHỤC
SINH :
Một cuốn phim tựa
đề “Thế giới chìm trong bóng tối” trình bày câu chuyện về một nhà khảo cổ danh
tiếng đứng đầu một cuộc khai quật khoa học tại Mồ Thánh Chúa ở Giê-ru-sa-lem.
Ngọn đồi
Golgotha đã được các nhà khảo cổ cẩn thận đào bới, vì Tin Mừng Gio-an thuật lại thân xác Đức Giê-su đã được an táng trong một
ngôi mộ, cạnh nơi Người bị hành hình thập giá. Sau nhiều ngày đào bới cẩn thận,
ngày nọ nhà khảo cổ chủ nhiệm công trình tuyên bố: “Chúng tôi đã tìm thấy xác
ông Giê-su”. Sau đó ông ta tổ chức một cuộc họp báo quy tụ hàng trăm ký giả các
nơi để trình bày kết quả cuộc đào bới của đoàn khảo cổ do ông lãnh đạo. Ông đã
đưa ra trước mặt mọi người một cái xác người đã bị khô đét, tay chân người này
có dấu đinh bị đâm thủng, cạnh sườn có vết lưỡi đòng đâm thâu và những vết máu
còn in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay
lại cảnh nhiều người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ
có một phụ nữ hét to: “Đây đúng là một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi:
Ông Giê-su thực sự đã bị đóng đinh, đã chết và được mai táng trong mồ như lời
thánh kinh đã ghi nhận”. Nhà khảo cổ liền xác nhận: “Vâng đúng thế. Ông Giê-su
đã bị đóng đinh, đã chết và được môn đệ an táng trong mồ. Nhưng làm gì có chuyện
sống lại, bởi vì xác của ông ta vẫn còn nằm đây mà chúng tôi đã tìm thấy được”.
Sau đó cuốn
phim mô tả về hậu quả của cuộc tìm thấy xác Đức Giê-su :
- Không ai còn
mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục
đã tắt đèn cạnh Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa đi và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các
thánh đường đều im tiếng.
- Các nữ tu cởi
khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại
nhiều nơi đã bị hạ xuống.
- Các ngọn nến
Phục Sinh tại các nhà thờ bị tắt ngủm.
- Thế giới chìm
trong một màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết
thúc với cảnh nhà khảo cổ đang hấp hối trên giường bệnh. Trước khi trút hơi thở
cuối cùng, ông ta đã phải thú nhận: “Tôi đã đánh lừa cả thế giới. Chính tôi đã
làm giả xác Đức Giê-su và bí mật đặt xác khác vào trong mộ một vài năm trước
khi khởi sự công cuộc đào bới này”.
Sau
lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người đã tuôn đến viếng Mồ Thánh ở
Giê-ru-sa-lem như vẫn xảy ra hàng năm vào Tuần Thánh. Những ngọn nến Phục Sinh
lại được thắp sáng và các tín hữu lũ lượt đốt những ngọn nến cháy sáng niềm hy
vọng đi đến khắp hang cùng ngõ hẻm để soi sáng những con đường tăm tối. Chuông
các nhà thờ lại tiếp tục ngân vang báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh và mọi người
đều vui mừng ca hát : “Sự sống đã chiến thắng thần chết. Thập
giá đã chiến thắng địa nguc. Allêluia!”.
3. THẢO LUẬN : Khi tuyên xưng đức tin : “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin
hằng sống vậy”, các tín hữu phải sống thế nào trong xã hội hôm nay,
để chứng tỏ niềm tin về một thế giới mới và một cuộc sống vĩnh hằng đời
sau ?
4. SUY NIỆM :
1) ĐỨC TIN VỀ MỘT CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG ĐỜI SAU :
Hầu như
mọi người, mọi dân tộc đều tin còn có một thế giới khác vĩnh hằng sau
cuộc sống đời tạm này : Người ta tin rằng sau khi chết, con người vẫn còn
sống một cách nào đó : “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Cái chết chỉ ở thể xác bề ngoài, còn linh hồn vẫn tồn tại mãi
mãi). Người ta cũng tin rằng trần gian chỉ là nơi ở tạm thời, còn
chết mới là về với nguồn cội : “Sinh ký, tử quy” (Sống gửi thác về).
Nhưng cuộc sống ấy như thế
nào thì có nhiều niềm tin khác nhau :
- Đức Phật thì chủ trương có sự luân hồi : Người
ta sẽ lần lượt trải qua nhiều kiếp sống khác nhau. Hồn người chết
sẽ được đầu thai vào kiếp khác để trở thành một người hay một loài vật
khác tùy theo kiếp trước họ đã sống như thế nào, là người tốt hay kẻ
xấu. Chỉ những bậc tu hành đắc đạo, diệt dục, loại trừ được các
“tham, sân, si” và có lối sống đại từ đại bi... mới được siêu thoát
thành Tiên thành Phật trong cõi Niết bàn cực lạc.
- Còn Đức Khổng Tử thì không khẳng định gì về cuộc
sống sau khi chết, vì ngài không được biết thực hư ra sao. Do đó khi Tử
Cống hỏi : “Người chết rồi có biết gì nữa không?” thì Khổng
Tử đã trả lời nước đôi như sau : “Nếu ta nói người chết rồi vẫn còn biết, thì
sợ các con cháu hiếu thảo sẽ liều mình chết theo ông cha. Nếu ta nói
người chết không còn biết gì nữa, thì sợ con cháu bất hiếu sẽ không
thèm chôn cất cha mẹ nữa” (Khổng Tử gia ngữ số 8).
- Riêng Đức
Giê-su : Vốn là
Con Thiên Chúa từ trời mà đến, nên Người đã dạy cho loài người biết rõ
ràng về một đời sống vĩnh hằng sau khi chết. Trong bài giảng về Bánh
Hằng Sống, Người đã khẳng định về hiệu quả của bí tích Thánh Thể : “Tôi
là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn
đời” (Ga 6,51). Khi nói chuyện với cô Mác-ta trước khi làm cho La-da-rô đã chết
chôn trong mồ 4 ngày được sống lại, Đức Giê-su nói :
“Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù
đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao
giờ phải chết” (Ga 11,25). Rồi trong Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay,
thiên thần đã nói với mấy người phụ nữ : “Sao
các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa,
nhưng đã trỗi dậy rồi!” (Lc 24,5-6).
2) VỀ SỰ CỨNG TIN CỦA CÁC MÔN ĐỆ VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH :
- Các môn đệ không phải là những người dễ tin : Tin mừng
Mát-thêu thuật lại lời tiên báo của Đức Giê-su với các môn đệ ít ngày trước cuộc
khổ nạn như sau : “Con người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ
do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ
ba sẽ sống lại (Mt 16,21). Ông Phê-rô chỉ quan tâm đến cuộc thương khó mà ông
cho là sự thất bại, nên yêu cầu Thầy đừng chấp nhận như vậy. Ông không chú ý đến
lời Thầy : “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Các tông đồ khác tuy có
nghe Thầy nói sẽ từ cõi chết sống lại, nhưng cũng không muốn tin. Do đó, khi vừa
thấy Thầy bị bắt, các ông kẻ thì bỏ Thầy chạy trốn, kẻ chối không biết Thầy, kẻ
trở về làng cũ và không muốn theo Thầy nữa...
-Còn các đầu mục Do thái thì cẩn trọng hơn : Họ đã
nghe Đức Giê-su nói đến việc đến ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại, nên
sau khi Người đã chết và được các môn đệ mai táng trong mồ, họ đã yêu cầu
Phi-la-tô cho lính canh mồ để tránh việc Người sống lại. Nhưng dù họ có canh
gác cẩn thận, Đức Giê-su vẫn từ cõi chết trỗi dậy đúng như Người đã báo trước.
-Về phần các môn đệ : do không tin Thầy sẽ từ cõi chết sống
lại, nên khi nghe bà Mađalena báo tin xác Thầy không còn trong mộ, hai môn đệ
Phê-rô và Gio-an bán tín bán nghi đã chạy đua ra mồ kiểm tra thực hư. Hai ông đều
quan sát thấy các khăn liệm còn đó nhưng xác Thầy biến mất! Riêng Gio-an thì
liên kết sự kiện khăn liệm kèm theo mồ trống đã đạt đến đức tin. Các môm đẹ
khác thì sau khi được Chúa Phục Sinh hiện ra nhiều lần để trấn an, để chứng
minh Người đã sống lại bằng việc ăn uống, cho xem và sờ vào các vết thương ở
tay chân và cạnh sườn, rồi được nghe Người giảng mầu nhiệm phục sinh phù hợp với
lời Kinh Thánh đã chép, liên kết với cử chỉ bẻ bánh… thì các ông mới tin vào mầu
nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Nhất là sau khi đón nhận được Ơn Thánh Thần
vào lễ Ngũ Tuần, các ông mới thực sự xác tín để hăng say đi khắp nơi rao giảng
Tin Mừng vào mầu nhiệm “Đức Giê-su đã sống lại từ cõi chết” và sẵn sàng chịu chết
để làm chứng cho lời rao giảng ấy.
3) NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊ-SU :
- Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su không giống như sự sống lại của những
kẻ chết được Người cho hồi phục sự sống, vì sau khi sống được một
thời gian, họ đã chết lại như bao người khác (x. Mc 5,41-42; Lc 7,14-15; Ga
11,39-44). Mầu nhiệm Phục Sinh cũng không có nghĩa là Chúa Giê-su sẽ sống mãi trong thành quả sự nghiệp của Người
như người ta thường nói : “Trâu chết để da, người chết để tiếng”. Nhưng
Người đã thực sự sống lại cả về sự sống thể xác cũng như tinh thần.
-Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su nghĩa là Người đã được biến đổi trở thành một “Người
Sống” (x. Lc 24,5), giống
như “Thiên Chúa hằng sống !” : Thánh Phao-lô đã diễn tả sự sống siêu việt ấy như
sau :
“Chúng ta biết rằng: Một khi Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, thì
không bao giờ chết nữa. Cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người.
Người đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay
Người sống là sống cho Thiên Chúa” (Rm 6,9b-10).
-Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su nhằm mục đích ban ơn cứu độ là sự sống vĩnh hằng cho
loài người : Đức Ki-tô đã sống lại vinh quang ra
khỏi mồ, để xuống nơi trú ngụ của các vong linh, gọi là Âm phủ
(Shéol) hay ngục Tổ tông, hoàn tất việc loan báo tin mừng cứu độ cho người sống kẻ chết. Người đã mở ra một
con đường sống cho nhân lọai chúng ta, là con đường “Qua đau khổ vào trong vinh
quang” (x Lc 24,26; Mt 16,21), để chúng ta “Cùng chết với Đức Giê-su thì sẽ
cùng được sống lại với Người” (x. 1 Pr 3,18). Đó là con đường của đạo Công Giáo
(Xem sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 632, 633, 634, 635).
4) MẦU NHIỆM PHỤC SINH LÀ CUỘC VƯỢT QUA CỦA THỜI TÂN ƯỚC :
-Lễ “Vượt qua”: nhắc lại công cuộc ngày xưa Đức Chúa đã giải
phóng con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ cho dân Ai-cập: Kể từ khi đại gia đình của
tổ phụ Gia-cóp di cư sang bên Ai-cập, con cháu Gia-cóp đã hiện diện suốt 430
năm tại đây. Sau những năm tháng hạnh phúc khi tổ phụ Giu-se làm quan đệ nhị
còn sống, là đến những năm tháng đau khổ khi họ bị làm nô dịch cho dân Ai Cập,
bị khinh dể ngược đãi và giết hại... Con cháu Gia-cóp cuối cùng đã được Đức
Chúa sai Mô-sê đến giải thoát khỏi ách nô lệ cho dân Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ
cách lạ lùng và cuối cùng vượt qua sa mạc trong thời gian 40 năm. Trong thời
gian này, con cháu Gia-cóp được Đức Chúa bang trợ bằng quyền năng và tình
thương, được ký kết giao ước với Đức Chúa để trở thành dân riêng của Ngài, được
lãnh nhận thập giới, ghi khắc trên hai tấm bia đá, được nuôi dưỡng hằng ngày bằng
man-na, thịt chim cút, nước tinh khiết chảy ra thành dòng suối từ tảng đá… được
Đức Chúa bảo vệ khỏi bị chư dân tiêu diệt… và cuối cùng đã về đến Miền Đất được
Đức Chúa hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời. Sự giải thoát
nói trên được gọi là mầu nhiệm Vượt Qua, và lễ Vượt Qua luôn được cử hành trong
bữa tiệc chiên tại tư gia vào ngày 14 tháng Nisan hằng năm.
-Ngày nay : các tín hữu được Hội Thánh mời gọi vượt qua bản thân để
sống hướng thượng nhân ái qua việc chay tịnh, lãnh nhận các phép bí tích, cầu
nguyện và làm việc bác ái cụ thể, chia sẻ cơm áo vật chất cho tha nhân. Quả vậy,
trong Mùa Chay Chúa muốn chúng ta “vượt qua” những ham muốn, những toan tính đời
thường để đón nhận tha nhân và sống hòa hợp với mọi người. Lễ Phục sinh nhắc nhở
chúng ta về cuộc “vượt qua đó”. Thánh Phao-lô dạy phải mừng lễ Vượt qua này như
sau : “Đức
Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên vượt qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy
men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh
tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5,7a-8). Hôm nay, Hội Thánh mời
gọi chúng ta phải chết đi cho con người cũ, cùng với những thói hư tật xấu như : ích kỷ,
ganh ghét, gian tham, hướng chiều theo các đam mê bất chính… để nhờ ơn Thánh Thần
tái tạo, trở thành một người mới luôn biết quên mình nghĩ đến người khác, sống
bao dung nhân hậu, công chính và khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi… Có như vậy,
việc mừng lễ Phục Sinh mới thực sự mang lại niềm vui và hy vọng được phục sinh
với Chúa Giê-su trong cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau.
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY
CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin giúp chúng con biết tôn trọng tha nhân, hợp tác
với nhau và với mọi người thiện chí để tiêu diệt các sự gian ác tội
lỗi, đẩy lùi văn hóa sự chết là những tệ nạn xã hội như sì-ke, ma
tuý, mại dâm, cờ bạc, say sỉn, cướp bóc, lừa đảo, thù hận làm hại kẻ
khác... Xin cho chúng con quyết tâm xóa sạch những điều bất chính ra khỏi
con người chúng con, khỏi gia đình và khu xóm chúng con. Nhờ đó, mọi
người sẽ được sống chan hòa yêu thương nhau, cùng nhau kiến tạo một
“Trời Mới Đất Mới”, nơi không còn nước mắt, không còn khổ đau và
chết chóc... nhưng là một Thiên đàng đầy tình yêu thương và hạnh phúc
viên mãn.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM