HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA
NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN B
Am
7,12-15; Ep 1,3-14; Mc 6,7-13
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Mc 6,7-13.
(7)
Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho
các ông quyền trừ quỷ. (8) Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi
đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng ;
(9) được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. (10) Người bảo các ông: “Bất cứ ở
đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. (11) Còn nơi
nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi
chân để tỏ ý phản đối họ”. (12) Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn
sám hối. (13) Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và
chữa họ khỏi bệnh.
2.
Ý CHÍNH : Đức Giê-su
sai 12 Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Người chỉ thị cho các ông phải rao
giảng Tin mừng: Phải liên kết từng hai ngừơi thành một nhóm, sống siêu thoát
khó nghèo và đầy lòng cậy trông phó thác. Các ông đã vâng lời ra đi thi hành sứ
vụ rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa bằng việc kêu gọi sám hối, xua trừ ma quỷ
và xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
3.
CHÚ THÍCH :
-C
7 : + Người gọi nhóm Mười Hai lại : Trước đây Đức Giê-su đã tuyển chọn Nhóm
Mười Hai, để các ông “ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với
quyền trừ quỷ” (x. Mc 3, 13-14). + Sai đi từng hai người một : Tông
đồ (Apostolus) nghĩa là “người được sai đi”. Đức Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi
từng hai người để nâng đỡ nhau và biểu lộ sự hiệp nhất yêu thương là dấu hiệu
môn đệ đích thực của Người (x. Ga 13,35).+ Ban cho các ông quyền trừ quỷ :
Quỷ (diabolos - nghĩa là kẻ vu khống), hoặc Xa-tan (nghĩa là địch thủ), thường
được dùng để chỉ về một nhân vật vô hình, chuyên nói dối và xúi giục loài người
phạm tội chống lại Thiên Chúa. Sứ mệnh của Đức Giê-su là “tiêu diệt ma quỷ” (x.
Dt 2,14), xua trừ chúng ra khỏi người bị nhập (x. Mc 5,8.13). Hôm nay Người
cũng ban cho các môn đệ quyền trừ quỷ ( c 13) và sau khi trở về các ông đã báo
cáo với Người như Tin mừng Lu-ca ghi lại như sau: “Thưa Thầy, nghe đến danh
Thầy thì cả ma quỷ cũng phải chịu khuất phục chúng con” (x. Lc 10,17).
-C
8-9 : + Người chỉ thị cho các ông không
được mang gì đi đuờng:
Nghĩa là các ông phải có phong cách đơn giản khi đi truyền giáo. + Chỉ
trừ cây gậy : Được mang gậy là biểu tượng quyền mục tử và là vật hộ
thân khi đi đường. + Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng: Không
mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc vật chất để biểu lộ lòng tín thác vào
Chúa quan phòng sẽ lo mọi sự cho mình. + Được đi dép : Tin mừng Mác-cô cho
đi dép (x Mc 6,9) đang khi Tin Mừng Mát-thêu lại cấm đi giày hay cầm gậy theo
(x. Mt 10,10). Sở dĩ có sự khác nhau về một vài chi tiết phụ này là tùy theo
tác giả đứng trên quan điểm văn hóa Hy Lạp hay Do Thái khi viết Tin Mừng. +
Không được mặc hai áo: Người Do Thái khi đi đường thường mặc hai áo :
Áo trong và áo choàng ngoài. Áo choàng là áo mặc ngoài để che nắng nóng ban
ngày và làm mền đắp ấm ban đêm. Đức Giê-su không cho các Tông đồ mặc hai áo vì
là cuộc hành trình truyền giáo ngắn hạn nên việc mang hai áo không thực sự cần
thiết.
-C
10-11 : + Đã vào nhà nào thì cứ ở lại đó
cho đến lúc ra đi :
Theo phong tục Đông Phương, dân chúng rất hiếu khách. Do đó khi các Tông đồ đã
đến ở trọ nhà nào, thì phải ở đó cho đến lúc ra đi. Nếu tự ý đổi chỗ ở sẽ làm
cho chủ nhà buồn lòng và các ông sẽ bị đánh giá là người “trọng phú khinh bần”.
+
Nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ
bụi chân để tỏ ý phản đối họ : Giũ bụi chân là một cử chỉ người Do Thái
thường làm khi đi từ miền đất của dân ngoại trở về miền đất của Do thái. Cử chỉ
giũ bụi chân biểu lộ sự tuyệt giao vì dân Do Thái bị cấm tiếp xúc với dân
ngoại. Ở đây giũ bụi chân làm bằng chứng họ đã từ chối Tin Mừng được loan báo.
-C
12-13 : + Đi rao giảng, kêu gọi người ta
ăn năn sám hối :
Sám hối là việc phải làm trước tiên để dọn tâm hồn đón nhận ơn cứu độ. Khi đi
thực tập truyền giáo, các Tông đồ mới chỉ được Đức Giê-su trao nhiệm vụ kêu gọi
người ta ăn năn sám hối, giống như Gio-an Tẩy Giả đã làm (x Mt 3,2). + Các
ông trừ được nhiều quỷ : Các Tông đồ đã trừ được nhiều quỷ nhân danh
Đức Giê-su và nhờ quyền năng của Người. Tuy nhiên có lần các ông không trừ được
quỷ vì các ông không mạnh bằng lòai quỷ dữ đó (x. Mc 9,17-18). Các ông chỉ trừ
được chúng do quyền năng của Đức Giê-su ban cho nhờ cầu nguyện và ăn chay (x.
Mt 17,21). + Xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh : Xức dầu
là cách chữa bệnh phổ biến thời Đức Giê-su. Có những loại dầu trị bá chứng được
dùng để chữa mọi thứ bệnh thông thường. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu cho
thấy ông ta cũng dùng dầu và rượu để chữa vết thương cho người gặp nạn (x. Lc
10,34). Ở đây, việc xức dầu còn mang tính bí tích nữa như thánh Gia-cô-bê dạy :
“Ai trong anh em ốm yếu ư ? Người ấy hãy
mời các kỳ mục của Hội Thánh đến. Họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức
dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh. Người ấy được
Chúa nâng dậy, và nếu đã phạm tôi, thì
sẽ được Chúa thứ tha” (x. Gc 5,14-15).
4.
CÂU HỎI : 1) Đức Giê-su tuyển chọn Nhóm Mười Hai nhằm mục đích gì ? 2) Tại sao
Đức Giê-su lại sai từng hai người đi truyền giáo ? 3) Quỷ hay Xa-tan ám chỉ ai
? Đức Giê-su có sứ vụ gì đối với ma quỷ ? 4) Đức Giê-su đã ra lệnh cho các Tông
đồ phải làm gì và các ông đã thi hành thế nào ? 5) Đức Giê-su chỉ thị cho các
Tông đồ được mang và không được mang theo những gì khi đi truyền giáo ? Tại sao
? 6) Lý do có sự khác biệt trong các chỉ thị của Đức Giê-su giữa Tin Mừng
Mác-cô và Mát-thêu ? 7) Tại sao các ông chỉ nên ở trọ trong một nhà và không
được dời từ nhà này sang nhà khác ? 8) Việc giũ bụi chân lại khi gặp thành
không tiếp nhận lời các ông giảng dạy có ý nghĩa thế nào ? 9) Tại sao trước hết
các ông phải kêu gọi ngừơi ta ăn năn sám hối ? 10) Do đâu mà các Tông đồ khử
trừ được nhiều quỷ ? 11) Tại sao có lần các ông không trừ được một quỷ câm ?
Theo Đức Giê-su thì muốn trừ được lọai quỷ này cần phải có điều kiện nào ? 12)
Tại sao Đức Giê-su truyền cho các Tông đồ xức dầu để chữa bệnh ? Thánh
Gia-cô-bê dạy gì về bí tích Xức Dầu bệnh nhân ?
II.
SỐNG LỜI CHÚA :
1.
LỜI CHÚA : Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa
họ khỏi bệnh (Mc 6,13).
2.3.
CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM :
1) THI HÀNH SỨ VỤ LOAN BÁO TIN
MỪNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG:
Một hôm thánh
Phanxicô gọi một tu sĩ trong dòng cùng đi với mình đi rao giảng Tin
Mừng. Hai thầy trò rảo qua các đường phố tại Assie cách thật nghiêm trang,
vừa đi vừa suy gẫm về Chúa. Về tới nhà, tu sĩ lấy làm ngạc nhiên thắc mắc
khi không thấy thánh nhân dừng lại ở chỗ nào để giảng dạy. Bấy giờ thánh nhân mới
mỉm cười và trả lời rằng: “Chúng ta đã giảng bằng chính gương sáng, bằng lòng
sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn”.
**
SUY NIỆM:
-Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các tông đồ và trao
sứ mệnh truyền giáo cho các ông như sau: “Anh em sẽ nhận được sức
mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem,
trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8).
-Qua bí tích rửa tội, đặc biệt là bí
tích thêm sức, người Kitô hữu cũng được sai đi đến với tha nhân, được sai đi
với tinh thần siêu thoát và với sức mạnh của Thánh Thần.
-Đối tượng mà chúng ta cần rao giảng
không ở đâu xa mà chính là những người đồng hương, bạn đồng nghiệp và những người
chúng ta gặp gỡ tiếp xúc… Thánh Phao-lô đã khẳng định về nhiệm vụ rao
giảng Tin Mừng của người tín hữu như sau: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao
giảng Tin Mừng !” (1Cr 9, 16) .
-Trong sắc lệnh về truyền
giáo (Ad gentes) Công Đồng Va-ti-ca-nô II cũng khẳng định như sau: “Giáo Hội nhờ Chúa Thánh Thần thúc
đẩy, cũng tiến bước trên con đường mà Chúa Giê-su đã đi, là nghèo
khó, vâng phục, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết”.
2)
TẠI SAO PHẢI SỐNG SIÊU THOÁT KHI ĐI TRUYỀN GIÁO?
Người ta kể rằng: có một thanh niên muốn
từ bỏ mọi sự thế gian để sống cuộc đời tu trì. Anh quyết định vào trong một khu
rừng vắng để sống ẩn tu trong một chiếc lều tạm. Hành trang duy nhất anh mang
theo là chiếc áo vải thô để mặc khi đi khất thực hằng ngày như các tu sĩ thời
đó.
Một ngày kia, anh rất buồn khi thấy
chiếc áo thô anh phơi ở bờ sông đã bị lũ chuột cắn nát. Anh đành phải vào trong
làng xin một chiếc áo thô khác. Nhưng rồi chiếc áo thứ hai này cũng cùng chung
số phận bị chuột cắn. Anh liền nghĩ ra cách phải nuôi mèo để bảo vệ chiếc áo. Nhưng
rồi, khi có mèo mỗi ngày anh lại phải lo thêm phần ăn cho mèo để nó đuổi chuột.
Ngày ngày đeo bị đi khất thực, anh cảm
thấy mình như một gánh nặng cho dân làng. Nghĩ thế, anh đã cố gắng tiết kiệm để
dành tiền mua một con bò để hằng ngày khỏi phải đi xin ăn. Nhưng khi có bò rồi,
hằng ngày thay vì đi khất thực anh lại phải đi kiếm cỏ cho bò ăn. Việc chăn
nuôi bò ngày càng phát triển khiến anh không còn thời giờ để cầu nguyện tối sớm
như trước. Rồi anh phải thuê thêm người đi cắt cỏ để nuôi đàn bò. Thời gian
trôi qua, mảnh đất hoang sơ dần biến thành một trang trại rộng lớn. Do đàn bò
ngày một sinh sôi nảy nở nên anh phải thuê thêm nhân công cho trang trại. Con
người ban đầu muốn từ bỏ mọi sự để thành một tu sĩ, nay lại trở nên một ông chủ
trang trại nuôi bò sữa to lớn.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại
muốn có thêm người bạn đời để sớm hôm chia sẻ gánh nặng công việc. Anh đã lấy
vợ sinh con và trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình như bao
người khác. Thế là anh đã đánh mất lý tưởng tu trì chỉ vì muốn bảo vệ một chiếc
áo vải thô.
**
SUY NIỆM:
-Câu chuyện trên cho thấy một người ban
đầu có thiện chí muốn đi theo lý tưởng tu trì cao đẹp, nhưng khi bắt đầu bận
tâm lo làm ăn kinh tế, anh đã không còn hứng thú với việc cầu nguyện và suy
niệm là hai yếu tố giúp anh trung thành với lý tưởng tu trì.
-Rồi xác thịt có đặc điểm “được đằng
chân, lân đằng đầu”: Một khi thân xác đã được hưởng thụ các tiện nghi vật chất,
thì nhu cầu muốn được thỏa mãn thêm các tiện nghi khác sẽ ngày một gia tăng.
-Như vậy lòng tham lam tiền bạc chính là
nguyên nhân làm cho người ta ham hưởng thụ các tiện nghi và dần dần đánh mất đi
lý tưởng cao đẹp. Vì thế Đức Giê-su đã chỉ thị cho các tông đồ phải sống siêu thoát để dễ dàng chu toàn sứ vụ
loan báo Tin Mừng Nước Trời.
3)
THIÊN CHÚA THƯỜNG HÀNH ĐỘNG NHỜ TAY LOÀI NGƯỜI:
Vào một buổi sáng mùa đông, một người
đàn ông đi ngang qua một ông lão ngồi ăn xin trên vỉa hè tuyết rơi lất phất.
Ông lão run lên từng cơn vì trời lạnh và bụng đói. Nhìn thấy lão ăn xin, người
đàn ông cảm thấy thương hại liền thưa với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, tại sao Chúa
lại không làm gì để giúp đỡ cho lão ăn mày đáng thương này?” Và ông đã nghe
Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm rồi”.
Ông ta lại thưa với Chúa: “Phải chăng
việc Chúa làm có vẻ như không làm ?”.
“Đúng thế”, Chúa đáp.
Ông ta lại hỏi: “Nhưng Chúa giúp lão ăn
mày này bằng cách nào?”
Chúa đáp: “Ta đã tạo dựng nên con và Ta
muốn con hãy thay Ta mà giúp đỡ cho người anh em nghèo khó này đó”.
**
SUY NIỆM:
- Chúa Giê-su đã chọn lựa các môn đệ,
huấn luyện họ trong một thời gian và sai họ đi thực tập truyền giáo noi gương Người.
- Trên đường rao giảng Tin Mừng, Chúa
Giê-su đòi các môn đệ phải có nếp sống siêu thoát: “Không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy”. Gậy là biểu tượng vai
trò mục tử và là vật hộ thân khi đi đường; “Không
được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng” để biểu lộ lòng tín thác vào
Chúa quan phòng; “Được đi dép” là nhu
cầu tối thiểu, “nhưng không được mặc hai
áo” do không cần thiết, vì việc truyền giáo chỉ vài ba ngày.
- Người muốn các ông thể hiện dấu chỉ
của người môn đệ đích thực là yêu thương hiệp nhất khi sai các ông đi từng nhóm hai người một (x. Mc 6,7)
và phải đi đến với mọi người không
phân biệt Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, giàu có hay nghèo khó…
- Các ông đã đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (x. Mc 6,12) và đã làm
chứng cho Chúa bằng việc: xua trừ nhiều
quỷ, xức dầu chữa bệnh cho nhiều người đau ốm (x. Mc 6,13).
- Mối tín hữu chúng ta hôm nay cũng được
Chúa chọn, để được huấn luyện và được sai đi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng với
ơn trợ lực của Thánh Thần. Vậy chúng ta sẽ làm gì để chu toàn sứ vụ của mình ?
4)
CHÍNH BẠN LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA:
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên
trước đây là một cuộc chiến tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn
của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà thờ có
một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Thánh Tâm Chúa Giê-su. Tuy nhiên, sau
cuộc chiến thì bức tượng đã bị bom đạn phá hủy thành nhiều mảnh vung vãi trên
mặt đất. Còn bàn tay bức tượng thì đã bị biến mất.
Một nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu
thập những mảnh vụn của bức tượng và cẩn thận lắp ráp lại thành pho tượng như
cũ. Riêng hai bàn tay bức tượng bị biến mất thì họ đề nghị nhờ thợ điêu khắc
đến làm lại hai bàn tay khác. Nhưng vị linh mục lại từ chối và nói: “Chúng ta
hãy cứ để pho tượng không có bàn tay, và dưới chân đế của bức tượng sẽ để hàng
chữ như sau: Chính bạn là đôi tay của Chúa”.
**
SUY NIỆM :
Quả thật, nhiều khách đến viếng thăm
ngôi nhà thờ đổ và bức tượng không bàn tay đã hiểu được ý nghĩa của câu nói
trên như sau:
-Giờ đây tuy bức tượng Đức Giê-su không
có bàn tay nhưng Người muốn mỗi tín hữu chúng ta hãy cho Người mượn đôi tay để
nâng đỡ những anh em tội lỗi được đứng dậy, băng bó những vết thương đau, chia
sẻ cơm áo vật chất cho người nghèo đói;
-Người muốn dùng bàn chân của chúng ta
để đi tìm những con chiên lạc mang về đoàn chiên Hội Thánh;
-Người muốn chúng ta dùng đôi tai để
lắng nghe và cảm thông với những người bất hạnh;
-Người muốn chúng ta dùng miệng lưỡi để
động viên những kẻ khốn cùng, giúp họ tín thác vào sự quan phòng yêu thương của
Chúa.
5)
SỐNG BÁC ÁI LÀ PHƯƠNG THẾ HỮU HIỆU ĐỂ CHU TOÀN SỨ VỤ:
Cô SO-PHI BÉC-ĐĂNG-CA (Sophie Berdanska)
là một tín hữu Công giáo vừa có tài giáo dục trẻ thơ lại vừa có đức tin mạnh
mẽ. Một hôm cô được nhận vào làm gia sư trong gia đình Méc-tơn (Merston) giàu
có nhưng lại theo Do thái giáo. Công việc chính của cô là dạy kèm cho năm đứa
con mới bị mồ côi mẹ. Ngày đầu tiên, khi biết So-phi là người Công giáo, ông
Méc-tơn đã cấm cô giảng đạo cho mấy đứa con của ông và cô đành miễn cưỡng chấp
nhận. Buổi tối hôm ấy, trong căn phòng riêng dưới tầng hầm, sau khi đọc kinh
tối xong, So-phi đã viết lời cầu vào một mảnh giấy nhỏ, xếp gọn rồi nhét vào
trong cái hộp nhỏ xíu gắn phía sau chiếc huy chương hình thánh giá. Đây là kỷ
vật mà người cha thân yêu đã tặng cô trước khi ông chết, với lời trăn trối cô
phải chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa mọi lúc mọi nơi. Từ ngày cha chết,
So-phi luôn đeo chiếc huy chương để nhắc cô về sứ vụ truyền giáo phải thực hiện
dù trong hòan cảnh không thuận lợi.
Từ ngày được cô giáo So-phi chăm sóc dạy
dỗ, lũ trẻ nhà Méc-tơn ngày càng trở nên ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành khác
hẳn lúc trước. Chúng quí mến và coi cô như bà mẹ thứ hai. Rồi một ngày kia, tai
nạn lần lượt đổ xuống nhà Méc-tơn: Trước tiên là cô bé út Na-ta-cha bị sốt cao
khiến ông Méc-tơn rất lo lắng. Ông vội mang con đến bệnh viện cấp cứu. Trong
thời gian này, cô So-phi đã luôn túc trực bên giường bệnh để chăm sóc đứa bé.
Rồi đến lượt hai đứa khác cũng bị lây bệnh và cũng được cô giáo tận tình chăm
lo cho đến khi cả ba anh em hoàn toàn bình phục. Sau cùng chính cô So-phi lại bị
ngã bệnh ! Đây là hậu quả của những ngày vất vả chăm sóc bệnh nhân. Sau hai
tuần lễ liệt giường, các bác sĩ đành bó tay không thể chữa cô khỏi bệnh. So-phi
đã từ giã cuộc đời trong sự tiếc thương vô hạn của gia đình Méc-tơn. Trước khi
lìa đời, Sophi đã tặng chiếc huy chương hình thánh giá cho Na-ta-cha là cô học
trò bé nhỏ của cô.
Thấm thoát đã đến ngày giỗ đầy năm của
So-phi. Hôm ấy cả gia đình Méc-tơn dậy sớm và cùng đi nhà thờ dự lễ cầu nguyện
cho cô. Tại sao có sự kiện lạ lùng này? Số là sau khi So-phi chết được một
tuần, ông Méc-tơn đến thăm các con lúc đó vẫn đang ưu sầu thương nhớ cô gia sư
mới chết. Tình cờ ông thấy chiếc huy chương trong tủ kính. Tò mò cầm lên xem,
ông mở hộp nhỏ phía sau chiếc huy chương, lấy ra một mẩu giấy và đọc thấy hàng
chữ như sau: “Lạy Chúa, trong nhà Méc-tơn
này, con đã bị cấm nói về Chúa với lũ trẻ. Vậy xin Chúa giúp con nói với chúng
bằng hành động khiêm nhường yêu thương và phục vụ. Con hy vọng gia đình này có
ngày sẽ tin vào Chúa và cũng được hưởng ơn cứu độ giống như con”. Ông
Méc-tơn rất xúc động khi đọc những hàng chữ này. Ông trao cho các con cùng đọc
và chúng cũng xúc động như ông. Rồi cả gia đình Méc-tơn đã đến xin học giáo lý
tại một nhà thờ công giáo gần nhà và đã được nhận phép Rửa Tội gia nhập đạo
công giáo vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh năm đó.
**
SUY NIỆM:
-Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã nhấn mạnh
giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng như sau: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn
là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy cũng là những
chứng nhân”. Chỉ có các hành động yêu thương kèm theo lời giảng mới có sức
thuyết phục con người thời nay tin theo Đức Giê-su.
-Mỗi tín hữu hôm nay cần gắn bó với Chúa
Giê-su như cành nho tháp nhập vào thân cây nho. Vì nếu không có ơn Chúa giúp,
chúng ta sẽ không thể chu tòan sứ vụ làm chứng cho Chúa được (x Ga 15,5).
-Hãy học tập lối sống của các tín hữu thời Hội Thánh
Sơ Khai, đã được sách Công Vụ ghi lại như sau: “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với
nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42).
-Trong cuộc sống xã hội, mỗi người chúng ta hãy biết nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân và
quảng đại tha thứ các xúc phạm của họ, luôn nghĩ đến người khác và khiêm tốn phục
vụ họ, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt để được mối lợi là thêm nhiều người tin yêu
Chúa và cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng ta.
4.
THẢO LUẬN : 1) Bạn có kinh nghiệm nào nơi bản thân hay nơi tha nhân về hiệu quả
của việc truyền giáo bằng lối sống chứng nhân bác ái không ? 2) Trong những
ngày này, mỗi người chúng ta sẽ làm gì để giới thiệu Chúa là Tình Thương cho
bạn bè và người thân chưa biết Chúa ?
5.
LỜI CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU, Xin cho chúng con trở
thành khí cụ bình an của Chúa, cho chúng con luôn chu toàn sứ mệnh làm chứng
cho Chúa bằng lối sống quên mình vị tha, dấn thân hy sinh và khiêm nhường phục
vụ tha nhân cách chân thành. Nhờ đó, người ngòai sẽ nhận biết tôn thờ và tin
theo Chúa để cùng được hưởng ơn cứu độ đời đời với chúng con.- AMEN.
LM
ĐAN VINH - HHTM