HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 13
TN B
Kn
1,13-15;2,23-24 ; 2 Cr 8,7-9.13-15 ; Mc 5,21-43.
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN
MỪNG: Mc 5,21-43
(21) Đức Giê-su xuống thuyền, lại
trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở
trên bờ Biển Hồ. (22) Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa
thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, (23) và khẩn khoản nài xin:
“Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu
thoát và được sống”. (24) Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và
chen lấn Người. (25) Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, (26) bao phen
khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất
tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (27) Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách
qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, (28) vì bà tự
nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.(29) Tức khắc, máu cầm
lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. (30) Ngay lúc đó, Đức Giê-su
cảm thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại giữa đám đông
mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. (31) Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen
lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. (32) Đức Giê-su ngó
quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. (33) Bà này sợ phát run lên, vì biết
cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật
với Người. (34) Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa
con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (35) Đức Giê-su còn đang nói, thì có
mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền
Thầy chi nữa?” (36) Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng
hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. (37) Rồi Người không cho ai đi theo
mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông là ông Gio-an. (38) Các Ngài đến
nhà ông trưởng hội đường, Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39)
Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có
chết đâu, nó ngủ đấy!”. (40) Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài,
rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. (41)
Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền
cho con: Trỗi dậy đi !”. (42) Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã
mười hai tuổi. Và lập tức người ta kinh ngạc sững sờ. (43) Đức Giê-su nghiêm
cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
2.Ý
CHÍNH: Ông trưởng hội
đường tên Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm tin vào Đức
Giê-su nên đã được Người cho sống lại. Trong lúc đi đường, một phụ nữ bị bệnh
băng huyết cũng nhờ tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su nên cũng
được lành bệnh. Điều này cho thấy: Đức Giê-su đến để giải thoát loài người khỏi
hậu quả của tội lỗi là bệnh tật và sự chết. Tuy nhiên, để được hưởng ơn cứu độ
ấy, người ta phải đặt trọn niềm tin vào Người.
3.CHÚ THÍCH:
-C
21-24: + Bờ
Biển Hồ: Biển Hồ nói đây có nhiều tên: là Biển Hồ Ga-li-lê hay
Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1) hay Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1). Đây là Biển Hồ có hình
bầu dục dài 21 km, rộng 12 km. Tại Biển Hồ này Đức Giê-su đã làm nhiều phép lạ
như: dẹp yên sóng gió (x. Mc 4,35-41), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-7), đi trên mặt
biển (x. Ga 6,16-21). Cũng tại vùng Biển Hồ này, Đức Giê-su đã chữa lành các
bệnh nhân (x. Mt 14,14.35-36). Hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-21; 15,32-39).+
Viên trưởng hội đường: Là người phụ trách việc phụng tự trong
hội đường Do Thái. Khi đi giảng đạo, Đức Giê-su thường đến các hội đường Do
Thái vào ngày Sa-bát để rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh (x. Mt 4,23; Lc
4,31-37.44). + Ông ta sụp xuống
dưới chân Người và khẩn khoản nài xin: Thái độ sụp xuống
dưới chân Đức Giê-su và nài xin Người cho thấy đức tin mạnh mẽ của ông. +
“Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu
thoát và được sống”: Đặt tay là khẳng định mối liên hệ chặt chẽ
giữa người đặt tay và vật hay người được đặt tay. Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân
ám chỉ các phép bí tích do Đức Giê-su lập ra sau này để ban ơn cứu độ cho các
tín hữu.
-C
25-28: + Bà kia bị băng huyết đã mười hai năm: Bệnh băng huyết là một loại bệnh
phụ khoa, làm cho người phụ nữ bị ra ô uế theo Luật. Bệnh nhân bị bệnh này
không được đụng chạm tới ai để tránh cho họ khỏi trở nên ô uế (x. Lv 15,25-27).
+ Bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người,
vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”: Chính
nhờ tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su, mà bà này đã vượt qua đám
đông để tới gần Đức Giê-su và bà còn dám vượt qua Lề Luật để đưa tay ra chạm
vào áo của Người.
-C
29-31: + Bà cảm
thấy trong mình đã được khỏi bệnh: Chạm đến áo Đức Giê-su cho thấy cử
chỉ bên ngoài thân xác cũng có giá trị làm phát sinh đức tin trong tâm hồn. Nhờ
đức tin mà bệnh nhân được khỏi bệnh. + “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”:
Đức Giê-su muốn cho người phụ nữ ý thức rằng: chị ta được khỏi bệnh do quyền
năng phát xuất từ Người và do ý định của Người chủ động thực hiện. Câu hỏi của
Chúa còn có mục đích cho các môn đệ và đám đông dân chúng biết rõ về phép lạ
đó, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai.
-C
32-34: + Bà này sợ đến phát run, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình: Bà sợ vì việc làm của bà đã vi phạm Luật Mô-sê tưởng là chỉ
mình bà biết, nhưng đã bị Đức Giê-su phát hiện. + Bà đến phủ phục trước
mặt Người, và nói hết sự thật với Người: Đức tin của người đàn bà này
lúc đầu chỉ là sự mê tín dị đoan. Nhưng giờ đây được Đức Giê-su quan tâm sửa
dạy, đã trở thành đức tin đúng đắn vững mạnh, thúc bách bà thêm can đảm đến phủ
phục và thú nhận sự thật với Người. + “Này con, lòng tin của con đã cứu
chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”: Đức Giê-su cho
thấy chính Người đã chữa lành cho người đàn bà vì bà đã tin tưởng cậy trông vào
Người, chứ không phải cái áo Người mặc chữa lành bệnh cho bà.
-C
35-37: + “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa ?: Qua câu này, người nhà ông trưởng hội đường không tin Đức
Giê-su có thể phục sinh kẻ chết. Câu này cũng là dịp thử thách đức tin của ông
Gia-ia. + “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”: Sự im lặng của Gia-ia
khi nghe báo tin con gái ông đã chết, cho thấy ông vẫn kiên trì với đức tin. Vì
thế, Đức Giê-su đã khích lệ ông : “Chỉ cần tin thôi” hay “Cứ vững tin là được”.
Qua câu này, Đức Giê-su muốn cho Gia-ia đừng để đức tin bị chao đảo, như có lần
Người đã nói : “Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc 9,23). +
Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là
ông Gio-an: Ba ông này luôn theo sát Đức Giê-su trong các biến
cố quan trọng (x. Mc 5,37; 9,2; 14,33). Dù muốn giữ bí mật đối với đám đông,
nhưng Đức Giê-su cũng cho ba môn đệ thân tín đi theo để sau này họ kể lại cho
hậu thế biết (x. Ga 19,35). Sở dĩ phải ba ông, vì theo Luật Mô-sê thì lời chứng
của ba người mới có giá trị (x. Đnl 19,15; Mt 18,16).
-C
38-40: + “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ?”: Những người khóc lóc kêu la nói đây
là những người khóc mướn. Họ được tang gia nhờ cậy để khóc than to tiếng mỗi
khi có khách đến viếng người chết. + Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy !: Trong Thánh Kinh, sự chết được diễn tả bằng nhiều kiểu nói : “Một số đã an
nghỉ” (x. 1 Cr 15,6); “Về những ai đã an giấc ngàn thu” (x. 1 Tx 4,13); “an
giấc trong Đức Giê-su” (x. 1 Tx 4,14). Khi nghe biết La-da-rô chết, Đức Giê-su
cũng nói : “La-da-rô bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11,11). Ở đây, khi
khẳng định cô bé chưa chết, mà chỉ đang ngủ đó thôi, là Đức Giê-su báo trước
việc Người sắp cho em sống lại, được thức dậy sau một giấc ngủ. + Họ chế
nhạo Người, nhưng Người bắt họ ra ngoài: Sự kiện này cho thấy : Những
người không tin và chế nhạo thì không đáng được chứng kiến phép lạ như có lần
Người đã nói : “Không nên lấy của thánh mà ném cho chó. Cũng không nên vất ngọc
trai trước mặt con heo !”.+ Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi
với Người, vào nơi nó đang nằm: Chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé,
và ba môn đệ là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là những kẻ có thiện chí và đức tin
nên được Người cho chứng kiến phép lạ để gia tăng đức tin. Vì “ai có sẽ được
cho thêm để nên dư dật !”.
-C
41-43: + “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !”: Cũng như khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chỉ cần phán một
lời là mọi sự xuất hiện (x. St 1,3.6.9.11.14), ở đây Đức Giê-su cũng chỉ ra
lệnh là em bé kia lập tức sống lại. Điều này chứng tỏ Đức Giê-su làm chủ trên
cả người sống lẫn kẻ chết (x. Mt 28,18). + Đức Giê-su nghiêm cấm họ không
được để một ai biết việc ấy: Khi cấm các môn đệ không được nói ra phép
lạ này là để tránh sự bồng bột quá khích của dân Do Thái bấy giờ đang có quan
niệm ái quốc cực đoan về Đấng Thiên Sai. Phải chờ đến ngày Đức Giê-su từ cõi
chết sống lại, ba môn đệ này mới thuật lại phép lạ mà các ông đã chứng kiến.
4.CÂU
HỎI: 1) Biển Hồ nói đây là biển gì ? Đức Giê-su đã làm các phép lạ nào trên
Biển Hồ và trong khu vực này ? 2) Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su thường
làm gì tại các hội đường Do thái ? 3) Lòng tin của ông trưởng hội đường vào Đức
Giê-su biểu lộ qua thái độ nào ? 4) Cử chỉ đặt tay của Đức Giê-su nói lên điều
gì ? 5) Vì sao người đàn bà này lại bị Luật Mô-sê cấm đụng chạm tới người khác
? 6) Lý do nào khiến bà ta dám vượt qua điều Luật cấm để đến gần chạm vào áo
Đức Giê-su ? 7) Tại sao Đức Giê-su lại hỏi đám đông : ”Ai đã sờ vào áo Tôi ?”
8) Tại sao người đàn bà bị bệnh lại sợ khi nghe Đức Giê-su hỏi đám đông ? 9)Tại
sao Đức Giê-su lại đòi người đàn bà phải công khai thú nhận mình đã được khỏi
bệnh ? 10) Đức Giê-su nói câu nào để xác định chính Người chứ không phải áo
Người đang mặc đã chữa bệnh cho người đàn bà ? 11) Đức Giê-su đã nói gì với ông
Gia-ia để khích lệ ông vững tin ? 12) Ba môn đệ nào được chứng kiến phép lạ Đức
Giê-su phuc sinh cô bé ? Ba ông này còn được đi theo Chúa trong những trường hợp
nào khác nữa ? 13) Trong Thánh Kinh có những câu nào diễn tả sự chết như một
giấc ngủ ? 14) Tại nhà Gia-ia, tại sao Đức Giê-su không cho những kẻ cười nhạo
Người ở lại ? Những ai được chứng kiến phép lạ Người làm ? 15) Đức Giê-su đã
làm gì để phục sinh cô bé ? 16) Tại sao Đức Giê-su cấm môn đệ nói ra phép lạ
này ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI
CHÚA: Người nói với bà ta : “Lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và
khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NHỜ
VÂNG PHỤC
ÁP-RA-HAM TRỞ THÀNH CHA CỦA CÁC TÍN HỮU:
Ông Áp-ram khi đã già yếu đã gặp được Đức Chúa và được
Ngài chọn làm tổ phụ của một dòng giống tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát
biển. Ngài cũng đổi tên ông từ Áp-ram trở thành Áp-ra-ham, nghĩa là “Cha của
những kẻ có lòng tin”. Tổ phụ Áp-ra-ham đã nêu gương tin cậy vâng phục Đức
Chúa. Mãi đến năm 90 tuổi Áp-ra-ham mới được Chúa ban cho một đứa con trai đặt
tên là I-sa-ác. Nhưng năm I-sa-ác được 12 tuổi, Đức Chúa một lần nữa đã thử
thách đức tin của ông bằng việc ra lệnh cho ông đem đứa con trai duy nhất đi
sát tế dâng cho Đức Chúa trên núi. Dù khó chấp nhận điều này, nhưng Áp-ra-ham
vẫn tín thác cậy trông và tuyệt đối vâng lời Đức Chúa. Ông đã cùng con trai đi
leo lên núi cao và lập một bàn thờ để giết con làm lễ vật tiến dâng cho Đức
Chúa, theo như phong tục của chư dân thời bấy giờ. Thấy rõ đức tin tuyệt đối
của Áp-ra-ham, Đức Chúa đã sai một thiên thần đến ngăn tay ông lại và thay vì
dâng con trai, ông được Chúa cho thế bằng một con cừu đực bị mắc sừng trong bụi
cây. Rồi sau đó Đức Chúa đã tái xác nhận những điều Ngài hứa với ông trước đó.
Cuối cùng Áp-ra-ham đã thực sự trở thành tổ phụ của một dân tộc tin vào Đức
Chúa đông như sao trời cát biển (St 22,1-18).
2. CHÚA
DẮT DÌU TA VƯỢT QUA MỌI GIAN NGUY TRONG CUỘC ĐỜI:
Một hôm lúc chiều tà trên bãi biển ẩm ướt, một thanh niên
đang đi bách bộ với Chúa Giê-su, hai Thầy trò vừa đi vừa đàm đạo với nhau. Trên
mặt cát ướt đều in lại bốn dấu bàn chân của hai thầy trò. Khi đi ngược lại,
chàng thanh niên rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của
hai thầy trò, nhưng có lúc lại chỉ thấy còn hai dấu chân. Chàng ta nghĩ đó là
hai dấu chân của mình nên hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi nãy Thầy ở đâu để con phải
đi một mình như thế ?” Chúa Giê-su liền trả lời: “Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấu
chân đó là của ai ?” Sau khi quan sát kỹ, chàng ta công nhận là hai dấu chân của
Chúa. Nhưng chàng lại tiếp tục hỏi: “Vậy lạy Chúa, con đang ở đâu trong lúc
Chúa đi một mình như thế?”. Đức Giê-su liền âu yếm trả lời anh rằng: “Hỡi con,
trong những lúc con bị lo âu phiền não, con không thể tự bước đi được. Đó là
lúc Thầy phải bồng ẵm con trên đôi tay của Thầy đó !”.
3) TÍN
THÁC ĐÒI SỰ CỘNG TÁC CỦA
TA VỚI ƠN CHÚA:
Một cơn lụt khủng khiếp đã tràn ngập cả một vùng rộng lớn.
Một bà bị kẹt ở trong nhà. Khi đang đứng ở cửa sổ nhà bếp trông ra ngoài, bà
thấy có một chiếc ca-nô tiến đến.
Người tài công nói với bà:
- “Bà leo lên đây kẻo nước lụt còn dâng cao hơn nữa đấy”.
- “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa,
Người sẽ cứu tôi.”
Người tài công lắc đầu bỏ đi. Ngày hôm sau, nước dâng lên
đến lầu hai. Khi đứng ở cửa sổ lầu hai nhìn ra biển nước, một chiếc tầu to hơn
xuất hiện. Người lái tầu bảo:
- “Bà leo lên tầu đi vì đây là chuyến đi cuối cùng lên
vùng đất cao đó”.
- “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào
Chúa, Người sẽ cứu tôi.”
Người lái tầu lắc đầu bỏ đi. Ngày sau nữa, nước đã dâng
lên đến mái nhà. Khi ngồi trên nóc nhà, bà trông thấy một chiếc trực thăng xuất
hiện trên trời. Phi công dùng máy phóng thanh nói với bà:
- “Tôi sẽ thả thang giây xuống. Bà leo lên giây cho chúng
tôi cứu bà”.
- “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào
Chúa, Người sẽ cứu tôi.” Phi công lắc đầu bay đi chỗ khác.
Ngày hôm sau nước ngập cả căn nhà, và bà đã bị chết chìm.
Khi đến của thiên đường, bà nói với Thánh Phêrô, “Trước khi tôi vào thiên đàng,
tôi phải làm đơn khiếu nại. Tôi tin tưởng là Chúa sẽ cứu tôi, thế mà Người lại
bỏ rơi khiến tôi bị chết chìm!”
Thánh Phêrô nhìn bà với ánh mắt thương hại và nói: “Tôi
không biết Chúa có thể làm gì hơn cho bà đây: Để cứu bà, Người đã lần lượt gửi
đến cho bà một chiếc ca-nô, rồi một chiếc tầu và cuối cùng là một chiếc trực
thăng nữa ?”
Người đàn bà trong câu chuyện trên đã quên rằng Thiên
Chúa thường ban ơn cứu giúp chúng ta qua tha
nhân và các phương tiện thông thường. Chúng ta không thể chỉ biết khoanh tay cầu
xin Chúa ban ơn theo ý mình, mà trước hết hãy biết sử dụng các phương thế do
Chúa gửi tới nữa.
Thánh I-nha-xi-ô cũng dạy: “Cầu nguyện như thể mọi thứ
đều lệ thuộc vào Chúa, nhưng làm việc như thể mọi sự đều lệ thuộc vào ta”.
4) ĐỨC TIN MẠNH
CỦA NGƯỜI NÀY SẼ CỦNG CỐ ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI YẾU:
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Budapest nước Hungary để
trấn áp một cuộc bạo động, một viên sĩ quan trẻ hung hăng tìm đến nhà vị linh
mục. Bước vào phòng, sau khi đóng xập cửa lại, anh ta chỉ lên cây thánh giá
treo trên tường và nói với vị linh mục:
- Này, ông có biết không, cái đó là một sự dối trá,
mê hoặc dân nghèo để bọn người giàu kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây giờ ở đây
chỉ có ông và tôi, Vậy ông hãy thú nhận là ông không hề tin vào ông Giê-su chết
trên thập giá kia là Con Thiên Chúa.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời:
- Tôi thật sự vững tin như thế !
Viên sĩ quan liền rút súng ra và bảo:
- Ông đừng có đùa với tôi! Nếu ông không khẳng định đó là
sự dốt trá, tôi sẽ giết ông ngay!
Vị linh mục đứng thẳng người, nhìn sâu vào đôi mắt anh ta
và dõng dạc trả lời:
- Tôi không thể nói khác được. Đức Giê-su thật sự là Con
Thiên Chúa!
Thật bất ngờ, nghe đến đây, viên sĩ quan liền buông tay
ra để rơi khẩu súng xuống nền nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị linh mục vừa khóc
vừa nói :
- Xin lỗi cha, con chỉ muốn thử xem cha có tin thực sự
không! Đúng thế, con cũng đã âm thầm tin Chúa nhiều năm qua giống như cha ! Giờ
đây, con đã khám phá ra rằng: Vẫn có ít nhất một người đã dám chết vì đức tin
của mình, chính cha đã củng cố đức tin yếu kém của con!
3. THẢO LUẬN :
Một tín hữu gặp gian nan thử thách lại chỉ biết xin khấn, mà không cố gắng phấn
đấu làm hết sức để vượt qua, thì có đức tin mạnh không ? Đó có phải là thái độ
tin thác vào lòng Chúa thương xót của Chúa không ? Tại sao ?
4. SUY NIỆM :
1) Tầm quan
trọng của Đức Tin để nhận được ơn chữa lành:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại hai phép lạ nói lên
tầm quan trọng của Đức tin nếu chúng ta muốn được ơn Chúa cứu độ:
- Phép lạ thứ nhất là người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã
mười hai năm. Nhờ có đức tin mạnh vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su,
nên cuối cùng bà đã được Người chữa cho lành bệnh loạn huyết.
- Phép lạ thứ hai là một bé gái mới chết đang nằm trên
giường. Đức Giê-su đã được cha đứa bé là ông trưởng hội đường Gia-ia mời đến
nhà để cứu chữa cho đứa con gái của ông sắp bị chết. Dù đứa bé đã chết, nhưng
nhờ vững tin vào lời Đức Giê-su: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Ông trưởng
hội đường đã không nản lòng bỏ cuộc và tiếp tục đưa Người đến nhà. Cuối cùng
nhờ vững tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su mà bé gái con ông đã
được Người truyền cho sống lại: “Ta-li-tha kum”: “Này bé, Thầy truyền cho con:
Trỗi dậy đi!” (Mc 5,41).
Trong cả hai phép lạ này, đức tin của người phụ nữ bị
bệnh loạn huyết và đức tin của viên trưởng hội đường Gia-ia là điều tối cần để
nhận được ơn cứu độ của Đức Giê-su.
2) Đức tin chân
thành của người phụ
nữ bị loạn huyết:
Loạn huyết là một chứng bệnh nhơ uế. Người Do thái không
những coi đó là bệnh nhơ uế về mặt thể lý mà còn coi bệnh này là một thứ gây ô
uế về phạm vi luân lý nữa. Cho nên Luật Mô-sê cấm những kẻ mắc bệnh này đụng
chạm tới người khác. Vì bệnh nhân mắc
bệnh này chạm tới ai thì người ấy liền trở nên ô uế. Người phụ nữ bị bệnh loạn
huyết trong Tin Mừng hôm nay không dám kêu xin Đức Giê-su chữa bệnh cho mình,
vì bà sợ nếu để người khác biết bà mắc chứng bệnh nhơ uế này thì bà sẽ lập tức
bị xua đuổi khỏi đám đông. Bà định tâm sẽ giữ im lặng tiến gần đến bên Chúa để
chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là bà sẽ được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được
Chúa chữa cho khỏi bệnh. Nhưng Người muốn bà phải can đảm tuyên xưng đức tin để
làm chứng cho Người. Bấy giờ Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã
sờ vào áo Tôi ?”. Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà
Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ
làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết điều gì đã xảy đến cho mình. Bà
đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người liền nói với
bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi
bệnh” (Mc 5,30-34).
3) Đức tin kiên
vững của ông Gia-ia:
Ông là trưởng của một hội đường Do thái. Ông tin vào
quyền năng và tình thương của Đức Giê-su nên khi có đứa con gái bị bệnh nặng
gần chết, ông đã đến kêu xin Đức Giê-su mau đến nhà chữa bệnh cho con ông.
Trong lúc cùng đi với Đức Giê-su về nhà, thì ông Gia-ia đã nghe tin con gái ông
đã chết! Nhưng Gia-ia đã không nản lòng bỏ cuộc. Ông đã được nghe lời Đức
Giê-su động viên: "Đừng sợ, cứ tin". Ông đã tin vào lời Chúa, và cuối
cùng con gái ông tuy đã chết, nhưng đã được trỗi dậy sau lời truyền phán của
Đức Giê-su: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !” (Mc 5,41). Chính nhờ
ông Gia-ia biết vững tin vào vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su, mà
đứa con gái của ông đã nhận được ơn Chúa cứu độ.
4) Sống đức tin trong cuộc sống hôm
nay:
- “Thưa Ngài. Xin cứu chúng con, kẻo
chúng con chết mất!” (Mt
8,25):
Đức
tin là một nhân đức quan trọng nhất giúp chúng ta đặt trọn niềm tín thác cậy
trông vào tình thương quan phòng và quyền năng vô biên của Chúa Giê-su. Mỗi khi
gặp những điều khó khăn trái ý, hay khi đối diện với những vấn đề vượt quá sức tự nhiên của mình. Như các môn
đệ Chúa xưa, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu Chúa đang ngủ yên trong tâm hồn
chúng ta. Hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con
chết mất!” (Mt 8,25). Chúa có thể cũng sẽ quở trách đức tin yếu kém của chúng
ta: “Sao nhát thế ? Làm sao anh em vẫn
chưa có lòng tin ?” (Mc 4,40). Nhưng đồng thời Người sẽ cũng sẽ thương
ra tay thực hiện những điều lạ lùng để cứu thoát chúng ta. “Vì đối với Thiên
Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
- “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”
(Mc 5,36):
Có
nhiều người khi gặp phải những tình huống khó khăn mà cầu xin Chúa không được
như ý nên thường ngã lòng cậy trông, không còn cầu xin gì nữa. Khi gặp phải
tình huống ấy, chúng ta hãy nghe lời Đức Giê-su trấn an ông Gia-ia: “Ông đừng
sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu điều chúng ta xin thực sự hữu ích cho phần rỗi đời
đời của chúng ta, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn theo ý chúng ta xin, như lời
Chúa Giê-su đã nói về tình thương của Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những
kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em,
Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người
sao?” (Mt 7,11).
- “Đừng theo ý con một xin vâng ý
Cha” (Mt 26,39):
Khi
tin vào Đức Giê-su, là chúng ta hãy noi gương Người để bỏ cái tôi ích kỷ tự mãn
của mình, để đi con đường hẹp, chấp nhận vác tập giá mình hằng ngày mà theo
chân Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, đừng cầu theo ý riêng mình, nhưng hãy cầu
xin theo thánh ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su: “Đừng theo ý con, một xin vâng
ý Cha”. Chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện theo kinh Lạy Cha. Hãy cầu xin cho ta
nên khí cụ bình an của Chúa như lời Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Lạy
Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…”.
- Phải sẵn sàng cộng tác với ơn
Chúa:
Trong
các phép lạ của Chúa, chúng ta thấy luôn có sự cộng tác của con người. Chẳng
hạn: Trong tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta đã
"múc nước đổ đầy các chum" (Ga 2,7); Trong phép lạ về nhân bánh ra
nhiều, Chúa chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi có “5 chiếc bánh và 2 con cá"
(Mc 6,35-43); Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn
chính anh mù phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40); Trong cuộc
sống đời thường, Chúa luôn muốn cho chúng ta sử dụng hết các khả năng của chúng
ta, và Chúa chỉ can thiệp khi cần mà thôi như câu ngạn ngữ: “Hãy thắp lên một
ngọn đèn, con hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.- “Hãy làm hết sức mình đi
rồi Trời sẽ trợ giúp”.
- Tất cả đều là hồng ân:
Sau
khi kết thúc công việc, chúng ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và nếu
chẳng may bị thất bại, chúng ta cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin
thì : “Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành” và “Mọi sự đều là hồng ân”. Tất cả
những gì xảy đến cho ta đều là hồng ân của Chúa ban và đều mang lại ích lợi cho
phần rỗi đời đời của ta.
5.LỜI
CẦU:
LẠY
CHÚA GIÊ-SU. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Tai
con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay và môi miệng con đã nhiều lần
được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn chưa loại trừ được các đam mê
tội lỗi. Xin gia tăng lòng tin cậy mến và sự quyết tâm xa lánh dịp tội cho con,
nhờ đó con hy vọng sẽ được Chúa ban ơn chữa lành như người phụ nữ trong Tin
Mừng hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG
CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM