HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT III
MÙA CHAY B
Xh 20,1-17 ; 1 Cr
1,22-25 ; Ga 2,13-25
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 2,13-25
(13) Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giê-su
lên thành Giê-ru-sa-lem, (14) Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán
chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. (15) Người liền
lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi
Đền Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và
lật nhào bàn ghế của họ. (16) Người nói với những kẻ bán bồ câu:
“Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành
nơi buôn bán”. (17) Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong
Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt
thân”. (18) Người Do Thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng
tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (19) Đức Giê-su
đáp: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây
dựng lại” (20) Người Do Thái nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi
sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?”
(21) Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người.
(22) Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người
đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.
(23) Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có
nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người
làm. (24) Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết
thảy (25) và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính
Người biết có gì trong lòng con người.
2. Ý CHÍNH:
Với lòng
nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giê-su không thể chấp nhận được
cảnh bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy
quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn cùng
với tiền bạc, chiên bò, chim câu của họ... ra khỏi Đền Thờ. Người
tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ
phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành trong Đền Thờ Mới
là thân xác Phục Sinh của Người và trong lòng các tín hữu, thay sự thờ
phượng tạm thời trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bằng gỗ đá.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-15: + Lễ
Vượt Qua của dân Do Thái: Vào thời Đức Giê-su, lễ Vượt Qua
là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành
hương về Đền thánh Giê-ru-sa-lem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên Vượt
Qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa đã dùng Mô-sê
giải phóng con cháu Gia-cóp là dân Do Thái khỏi ách nô lệ cho dân Ai
Cập. + Đền Thờ: Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện
giữa dân Người. Không kể Đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40
năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ đã lần lượt được xây
dựng tại Giê-ru-sa-lem là Đền Thờ Sa-lô-mon, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và
Đền Thờ thời vua Hê-rô-đê. + Có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và
những người đang ngồi đổi tiền: Tại sân lương dân, các Tư tế
cho một số người vào bán chiên, bò và chim câu... để dân chúng dễ dàng
mua dâng vào Đền Thờ làm lễ vật hiến tế (x. Ga 2,14 ; Lc 2,24). Cũng có
cả những người ngồi đổi tiền từ đồng tiền của Rô-ma sang đồng tiền
riêng của Đền Thờ. Lý do đổi tiền vì tiền Rô-ma lưu hành ngoài xã hội có
đúc hình và ký hiệu của hoàng đế Xê-da được coi như thần linh (x. Lc 20,
24-25), nên đã bị cấm sử dụng trong Đền Thờ. Người Do Thái muốn đóng
thuế tôn giáo hay góp tiền trùng tu Đền Thờ (x. Lc 21,1-2) phải đổi từ
đồng tiền Rô-ma lưu hành ngoài xã hội thành đồng tiền Đền Thờ tại bàn
đổi tiền này, rồi mới được bỏ tiền Đền Thờ vào thùng quyên góp (x. Ga
2,14). + Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả...: Sự
bất kính do bọn con buôn gây ra khiến Đức Giê-su rất đau lòng. Người
nổi cơn thịnh nộ và đã lấy các đoạn dây thừng cột chiên bò bỏ lại đó đây,
chắp lại làm thành dây roi, và dùng dây roi này mà đánh đuổi bọn con
buôn và các con vật ra khỏi Đền Thờ.
- C 16-19: + “Đừng
biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”: Nói câu này, Đức Giê-su đã gián tiếp nhận
mình là Con Thiên Chúa ngang hàng với Thiên Chúa. “Nơi buôn bán” hay “hang
trộm cướp” là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính trong Đền Thờ,
một nơi tôn nghiêm được dành riêng thờ phượng Đức Chúa. Thế là ứng
nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm để quở trách dân Do Thái (x. Gr
7,11). + “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt
thân”: “Sẽ phải thiệt thân” nghĩa là “sẽ phải chết”. Như vậy
ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: Lòng nhiệt thành với Đền Thờ
sẽ khiến Đức Giê-su bị người đời bách hại (x. Ga 15,5). +
Người Do Thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng
tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”: “Người Do Thái” trong
câu này ám chỉ các đầu mục của Đền Thờ là các Tư tế và thầy Lê-vi
đang phục vụ Đền Thờ. Họ bực tức khi thấy Đức Giê-su đánh đuổi bọn con
buôn ra khỏi Đền Thờ mà chính họ đã cho phép. Do đó họ hạch hỏi Đức
Giê-su đã dựa vào dấu lạ nào để chứng minh Người có quyền làm như
thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giê-su phải làm phép lạ cho
họ thấy để tin Người đã được Thiên Chúa sai đến (x. Mt 12,38 ; Mc 8,11 ; Lc
11,16). + “Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ xây
dựng lại”: Ở đây, Đức Giê-su cho họ một phép lạ làm chứng
Người được Thiên Chúa sai đến, là Người sẽ sống lại nội trong ba
ngày sau khi chết. Tuy nhiên Đức Giê-su sử dụng kiểu nói dụ ngôn mà
các ngôn sứ hay dùng là gọi thân thể Người là Đền Thờ. Câu này có
nghĩa là: Dù thân xác Người có bị giết chết thì cũng chỉ trong ba ngày
sẽ sống lại.
- C 20-22: + Phải
mất bốn mươi sáu năm mới xây xong: Do các đầu mục
Do Thái đã hiểu lời Đức Giê-su theo nghĩa đen nên đã nói đến thời gian
xây dựng Đền Thờ vật chất phải mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công
Nguyên và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm hoàn thành những công
trình chính), đang khi ý Đức Giê-su lại muốn nói Đền Thờ là Thân Thể
của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giê-su do
Thượng Tế Cai-pha làm chủ tọa, có hai kẻ đã đứng ra cáo gian Người rằng:
“Tên này đã tuyên bố: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong
ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Các đầu mục còn nhắc lại lời tố
cáo này khi lăng nhục Đức Giê-su trên thập giá (x. Mt 27,40). +
Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính Thân Thể Người:
Thân Thể Đức Giê-su phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình
ra cho loài người (x. Ga 1,14). Thân thể ấy là Đền Thờ Mới, nơi thờ
phượng Thiên Chúa trong Thần khí và Sự thật (x. Ga 4,23-24). + Khi
Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều
đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được Thánh Thần tác động,
các môn đệ mới có thể hiểu chính xác các lời nói việc làm của Đức
Giê-su (x. Ga 12,16; 14,26).
- C 23-25: + Nhiều
kẻ tin vào danh Người, nhưng chính Đức Giê-su lại không tin họ: Phép lạ
chỉ có tác dụng kích thích tính tò mò khiến người ta đến xem để biết
thực hư ra sao, còn đức tin có được là do tai nghe (x. Rm 10,17) chứ
không do mắt thấy (x Ga 20,29). Một số khá đông dân chúng đã tin Đức
Giê-su vì thấy các phép lạ Người làm (x. Ga 12,17-18). Nhưng đức tin
dựa trên mắt thấy là thứ đức tin bất toàn và không bền vững. Do đó
Đức Giê-su không tín nhiệm hạng tín hữu này. Thực vậy, trong số đám
đông dân chúng đòi kết án tử hình thập giá cho Chúa trước tòa
Phi-la-tô, chắc không thiếu những kẻ đã từng tung hô khi đón rước Người
vào Thành trước đó mấy ngày (x. Lc 19,37-38; Ga 12,12-15). + Đàng khác, phép lạ không đương nhiên dẫn đến đức tin: Các
biệt phái và Kinh sư đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm, thế mà
họ đâu có tin Người, trái lại còn đòi quan Phi-la-tô kết án tử hình thập
giá cho Người (x. Ga 11,45-53). Ngòai ra, họ còn xuyên tạc phép lạ trừ
quỉ của Đức Giê-su như sau: “Ông ta nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ” (Mc 3,22).
+
Người biết họ hết thảy: Đức Giê-su biết rõ ý đồ của dân
chúng theo Người là do vụ lợi, nên đã nói với họ rằng: “Các ông đi
tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã
được ăn bánh no nê” (Ga 6,26). Người đòi bệnh nhân phải có đức tin như
điều kiện để Người làm phép lạ chữa lành cho họ (x Mc 5,34). Người khen
đức tin mạnh mẽ của người đàn bà xứ Ca-na-an trước khi chính thức
chữa bệnh cho con gái bà (x Mt 15,28). Người đã không làm phép lạ ở
Na-da-rét do dân làng không tin Người là Đấng Thiên Sai (x Mt 13,58).
4. CÂU HỎI: 1) Lễ Vượt Qua là đại lễ kỷ niệm
biến cố nào trong lịch sử dân Ít-ra-en? 2) Đền thờ là gì? Trong lịch
sử có mấy Đền thờ đã được xây dựng tại Giê-ru-sa-lem? Đền thờ thời
Đức Giê-su là Đền Thờ thứ mấy? 3) Tại sao trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem
lại có cảnh buôn bán chiên bò, bồ câu và đổi tiền? 4) Đức Giê-su đã
có thái độ nào trước hiện tượng bát nháo bất kính nói trên? 5) Đức
Giê-su đã trả lời thế nào khi người Do thái hạch hỏi người về quyền
xua đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ? 6) So sánh câu nói của Đức Giê-su
về việc phá hủy Đền thờ trong Tin Mừng hôm nay với lời hai nhân chứng
cáo gian Người trước tòa Thượng tế Cai-pha khác nhau thế nào? Họ còn
nhắc lại điều cáo gian này vào lúc nào? 7) Thực ra Đền thờ Đức
Giê-su nói tới ở đây ám chỉ điều gì? 8) Đức tin chân chính là do mắt
thấy hay bởi tai nghe? Phép lạ có đương nhiên khiến kẻ vô tín tin Chúa
không? Tại sao? 9) Đức Giê-su làm phép lạ nhằm mục đích gì? Người
đòi bệnh nhân điều kiện gì trước khi chữa lành cho họ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi
đây. đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16):
2. CÂU CHUYỆN:
1) MỖI TÍN HỮU ĐỀU LÀ ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA:
Vua Tra-ja-no
là hoàng đế cai trị nước Rô-ma từ năm 98 đến năm 117. Nhà vua đã cấm đạo, và đã
bắt thánh Ignatio giám mục thành Antiochia. Tại tòa án, nhà vua đã chế nhạo đạo
công giáo, rồi gọi thánh Ignatio là thằng quỉ xấu xa, thánh Ignatio giám mục
thưa lại rằng:
- Tâu đức
vua, chẳng có ai gọi người mang Thiên Chúa trong mình là thằng quỉ dữ được.
Nhà vua hỏi
lại:
- Vậy ông
mang Thiên Chúa trong mình ư?
Thánh Ignatio giám mục trả lời:
- Tâu đức vua, phải - tôi mang Thiên
Chúa trong mình, vì những người đã chịu phép rửa tội, sống đời sạch tội, đều là
đền thờ của Thiên Chúa. Bởi vậy, không hạnh phúc nào lớn lao cho bằng người
công giáo, bằng được trở nên đền thờ Thiên Chúa; và cũng chẳng có gì can hệ cho
con người bằng phải luôn là đền thờ cho Thiên Chúa ngự.
Nghe xong, hoàng đế Trajano đã lên án
rằng:
- Ignatio thành Antiochia là người đã
cậy mình vì mang Thiên Chúa trong mình nên phải điệu đến Roma, để làm của ăn
cho thú dữ.
Trong Mùa Chay, hội thánh muốn các tín
hữu chúng ta thanh tẩy đền thờ tâm hồn của mình như lời thánh Phaolô: "Nào
anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên
Chúa ngự trong anh em sao?" (1Cr 3,16).
2)
NHÀ THỜ CẦN MỞ RỘNG CỬA ĐÓN NHẬN MỌI NGƯỜI.
GANDHI được tôn vinh là Cha Già của Ấn
Độ khi còn là sinh viên đi du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Nước
này nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc da trắng với da màu. Trong thời
gian học tập, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Ki-tô giáo và lập tức bị giáo
thuyết Tám Mối Phúc trong Bài Giảng trên núi của Đức Giê-su cuốn hút. Ông rất
tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi
người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do thái hay
lương dân... Gandhi nghĩ rằng : Có lẽ Ki-tô giáo là giải pháp tối ưu và hữu
hiệu để giải quyết tận gốc tệ nạn phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ là quê
hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào
Ki-tô giáo.
Ngày nọ, Gandhi đi bộ đến một nhà thờ để
biết về lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Ki-tô giáo. Tuy
nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại không cho ông
vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình.
Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng
cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ dành riêng
cho dân da mầu mà xin!” Gandhi rất tức giận và bỏ ra về. Ông đã ghi lại cảm
tưởng của ông trong tập nhật ký như sau: ”Tôi rất thán phục Đức Giê-su và giáo
thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn khi tiếp
xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài ! Nếu đạo Ki-tô cũng phân biệt chủng tộc
như vậy, thì Ki-tô giáo có hơn gì Ấn giáo có sự phân biệt giai cấp của tôi ?
Thôi, tôi cần chi phải gia nhập vào đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp
nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền
thống của cha ông là đủ”!
Chính thái độ phân biệt chủng tộc của
người giữ cửa nhà thờ đã trở thành rào cản Gan-dhi đến với đạo của Đức Giê-su.
Chúng ta nên suy nghĩ về lời nguyện được viết trên cửa một nhà thờ như sau:
“Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ
rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em, nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi
kiêu căng, ganh tị, bất hoà. Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để buớc chân
của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã. Xin
làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa”. (Theo
Flor McCarthy).
3)
PHẢI THỜ CHÚA TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT:
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ,
thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó
người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm
nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi
linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy
rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy
gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi
thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng.
Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn
phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá
bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Câu chuyện này dạy chúng ta một bài học
quan trọng: khi vào nhà thờ thờ phượng Chúa, chúng ta cần đọc kinh cầu nguyện
với thái độ tin tưởng và yêu mến. Hãy hát ngợi khen Chúa với lòng mến yêu tha
thiết. Khi nào ta làm được như thế thì việc thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ
những lúc đó, lời ca ngợi của chúng ta mới bay lên tới Chúa được.
4)
“TIẾNG CHIM HÓT TRONG BỤI MẬN GAI”-
CÂU
CHUYỆN VỀ SỨC MẠNH CỦA ĐỒNG TIỀN
Thỉnh thoảng đài truyền hình VN
lại cho chiếu lại bộ phim: “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác
giả là một nữ văn sĩ người Úc đạo Tin Lành. Khi viết cuốn tiểu
thuyết này, bà đã đứng trên quan điểm của đạo Tin Lành để phê phán
luật độc thân của hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này
cũng là dịp để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền đã tác
động không những trên cuộc đời của một linh mục mà còn ảnh hưởng lớn
lao đến uy tín của Hội Thánh nữa.
Câu chuyện về một linh mục là Cha
RÁP (Ralph): RÁP là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham
vọng. Vị linh mục này có nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút mạnh mẽ
khiến nhiều người đến với mình, nhưng đồng thời ông cũng muốn được
nổi danh và ham mê tiền bạc vật chất. Trong số các người mến mộ cha
Ráp, có một bà già quí phái giàu có, bà quí mến Cha cách đặc
biệt, nhưng tình cảm của bà không được cha đáp lại, nên từ tình yêu
biến thành thù hận. Tuy nhiên, thay vì trả thù theo kiểu thường tình,
bà già này đã cố tình gài bẫy để bôi đen cuộc đời của vị linh mục
trẻ bằng cách: Trước khi chết, bà đã làm một bản di chúc dâng cúng
toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Hội Thánh Công Giáo, với điều
kiện là Hội thánh phải bổ nhiệm Cha Ráp trực tiếp quản lý số tài sản
đó. Do quản lý nhiều tiền, Cha Ráp đã được bề trên cất nhắc lên địa vị
cao trong Hội Thánh, nhưng đồng thời những đồng tiền mà Cha quản lý
kia cũng biến đổi lòng đạo đức của Cha ngày càng xuống cấp, để rồi cuối
cùng cha đã bị sa ngã trong vòng tay của một thiếu nữ xinh đẹp tên là
Mê-ghi.
Câu chuyện nhằm chỉ trích Giáo Hội Công
giáo, nhưng cũng nói lên một sự thực: Giáo Hội của Đức Ki-tô tuy bản chất tinh
tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh
hưởng xấu bởi tiền của. Tiền bạc rất quan trọng và cần thiết cho mọi người, mọi
tổ chức và cho cả Giáo Hội tồn tại và phát triển. Nhưng tiền thay vì là phương
tiện, dễ trở thành chủ nhân của người chiếm hữu nó, như lời Chúa cảnh giác hôm
nay: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).
3.
SUY NIỆM:
1)
ĐỨC GIÊ-SU THANH TẨY ĐỀN THỜ GIÊ-RU-SA-LEM:
"Cứ mỗi dịp gần Tết kéo dài đến
tháng ba (âm lịch) hằng năm, cổng chùa lại léo xéo cảnh đổi tiền lẻ vào lễ
chùa. Những tờ tiền 200, 500 đồng được đổi thành từng cục như viên gạch mộc, cứ
"10 ăn 8 hoặc 10 ăn 7". Tức 100.000 đồng tiền chẵn thì đổi được
70.000 hoặc 80.000 đồng loại chuyên dùng để "sắp lễ" (200, 500 đồng).
Không biết bao nhiêu triệu đồng tiền "bé" được quay vòng cả năm không
chán: người đi lễ đổi tiền, tiền ấy được ném vào xó xỉnh, cài vào chân tay,
nách, đùi của các pho tượng đẹp nổi tiếng của quốc gia; rồi nhà chùa xách túi
hoặc rổ rá đi gom tiền ấy lại đem ra đổi ngoài cổng chùa. Và vòng quay lại bắt
đầu.
Đó là trích từ một bài viết trong Tuổi
Trẻ Online diễn tả về tệ nạn xảy ra thường xuyên tại nhiều ngôi chùa Việt Nam
thời gian gần đây, và đã bị dư luận lên án gay gắt. Câu chuyện người ta dùng
tiền lẻ làm ô uế đình chùa Việt Nam cũng tương tự như câu chuyện dân Do thái
làm ô uế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, khiến Đức Giê-su phải ra tay thanh tẩy như
trong Tin Mừng Gio-an sau đây ghi lại:
“Người thấy trong Đền Thờ có những
kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người
liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra
khỏi Đền Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra,
và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu:
“Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành
nơi buôn bán” (Ga 2,14-16).
Hành động xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ của
Đức Giê-su cho thấy: Việc lạm dụng Đền Thờ để tìm tư lợi là làm mất đi sự trang
nghiêm của nơi thờ phượng và làm ô uế Đền Thờ,… Đó là một trọng tội cần phải
được cấp thời chấn chỉnh. Đức Giê-su đòi người ta trả lại chức năng thực sự của
Đền thờ khi nói: “Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16b). Qua
hành động này, Đức Giê-su cũng gián tiếp bác bỏ lối thờ phượng Thiên Chúa hình
thức bề ngoài, đúng như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Đức Chúa quở trách dân
Do thái xưa: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại
xa Ta” (Mc 76b; Is 29,13).
2) CẦN
TUÂN GIỮ LỀ LUẬT THẾ NÀO?
Một người do thái nọ muốn sống thánh thiện nên đến xin ý kiến của
một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi :
– Từ trước tới nay anh sống thế nào ?
– Rất tốt, thưa ngài.
– Anh nói “rất tốt” nghĩa là sao ?
– Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên Chúa vô cớ, tôi không tục hóa ngày sabát, tôi không bất kính với cha mẹ, tôi không giết người, tôi không bất trung với vợ tôi, tôi không trộm cắp, tôi không làm chứng dối, tôi không
tham muốn của cải và vợ người khác.
Vị Rabbi nói :
– Tôi hiểu. Anh đã không vi phạm giới luật nào cả.
– Đúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp :
– Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không ?
– Ngài hỏi vậy nghĩa là sao ạ ?
– Nghĩa là : anh có tôn
kính thánh Danh Chúa không ?
Anh có thánh hóa ngày sabát
không ? Anh có hiếu kính cha mẹ
không ? Anh có tôn trọng và bảo vệ
mạng sống của người khác không ? Anh có biểu lộ tình yêu đối với vợ
con bằng lời nói hay hành động không ?
Anh có chia sẻ của cải cho người
nghèo không ? Anh đã bảo vệ danh dự và
tiếng tốt cho người bị hại chưa ? Anh có hay giúp đỡ người khác không ?
Người Do thái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới nay anh chỉ
nhìn các giới luật theo khía cạnh tiêu cực nên mọi cố gắng của anh chỉ là làm
sao khỏi vi phạm luật. Nhưng hôm nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới
hẳn : không chỉ cố tránh vi phạm Luật, mà còn phải làm những việc tốt Luật
dạy.
Kitô hữu ngày nay cũng cần lưu ý :
– Chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì lòng
yêu mến Chúa.
– Chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà giữ luật để đáp
lại tình Chúa đã yêu thương ta.
3) HÃY
TÔN TRỌNG THÂN XÁC LÀ ĐỀN THỜ CỦA CHÚA THÁNH THẦN:
- Để trả lời những kẻ chất vấn lấy quyền nào để ra
tay xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ, Đức Giê-su đã trả lời như sau: “Các
ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Qua
đó, Đức Giê-su ám chỉ Người chính là Đấng Thiên Sai và thân thể của Người giống
như Đền Thờ, sẽ bị tàn phá do người đời, nhưng đến ngày thứ ba Người sẽ từ cõi
chết trỗi dậy.
- Ngoài ra thân xác mỗi người chúng ta cũng là Đền
Thờ của Thiên Chúa như thánh Phao-lô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là
Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor
3,16.19). Do đó, chúng ta phải tôn trọng Đền Thờ của Chúa Ba Ngôi là thân xác
chúng ta như lời Chúa Giê-su: “Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha
Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong
người ấy” (Ga 14, 23).
4) HÌNH
PHẠT DÀNH CHO NHỮNG KẺ LÀM Ô UẾ ĐỀN THỜ:
- Những ai làm cho Đền Thờ thân xác mình và Đền Thờ
là anh em khác ra ô uế thì Đức Giê-su rất đau lòng như Người đã lên án những kẻ
xúi giục người ta phạm tội: “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã. Thà buộc
cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho
một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã” (Lc 17,1b-2). Thánh Phao-lô cũng quả
quyết về hình phạt dành cho những kẻ này: “Ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì
Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy
chính là anh em” (I Cr 3,17).
- Ngày nay Đức Giê-su cũng muốn các nhà
thờ phải thật sự là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong “Thần khí và sự
thật” (x Ga 4,24). Người muốn nhà thờ là nơi để con người gặp gỡ Thiên
Chúa. Tuy nhiên, nhìn vào các nhà thờ hiện nay, chúng ta thấy nhiều
khi nhà thờ đã trở thành một nơi sinh hoạt vui chơi văn nghệ như múa lân, múa
hát, diễn kịch xã hội vào các dịp Lễ Tết ngay trên gian cung thánh, làm mất đi
bầu khí trang nghiêm lẽ ra phải có. Nên biết rằng: Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su
muốn môn đệ hãy cầu nguyện trong thinh lặng, và chính Người ngay từ sáng sớm đã
vào nơi hoang vắng để cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha (x Mc 1,35).
5) THANH
TẨY ĐỀN THỜ THÂN XÁC VÀ TÂM HỒN THẾ NÀO ? :
- Tin Mừng CN hôm nay ghi nhận việc Đức
Giê-su thanh tẩy đền thờ Giê-ru-sa-lem. Người cũng muốn chúng ta tiếp tục công
việc của Người là giữ gìn thân xác ta là đền thờ thiêng liêng của Chúa Thánh
Thần. Chúng ta cần luôn thanh tẩy tâm hồn và thân xác xứng đáng được Chúa ngự
trị.
Hãy kính trọng thân xác của mình và của
tha nhân.
Hãy tu sửa các đền thờ thân xác chúng ta
và tha nhân đang bị xuống cấp, bị xúc phạm.
Hãy sửa chữa đền thờ là thân xác ta đang
bị bệnh tật, đói khát và mang thương tích.
Cần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi tội
thờ thần tài khi coi trọng tiền bạc hơn Thiên Chúa.
Cần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi các
đam mê dục vọng đang làm ô uế đền thờ tâm hồn chúng ta.
Cần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi thói
gian tham và cư xử bất công với người dưới.
Cần thanh tầy tâm hồn chúng ta khỏi các
thói hư, đặc biệt thói kiêu căng ganh ghét và tự ái cao.
- Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi tín hữu hãy năng
tự kiểm điểm để tìm ra những điều làm cho đền Thờ tâm hồn mình ra ô uế, rồi
quyết tâm tu sửa. Chúa Giê-su đã cho biết nguyên nhân làm cho người ta ra ô uế
là từ trong tâm hồn: “Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết
người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là
những cái làm cho con người ra ô uế” (Mt 15,19-20). Trong Mùa Chay này, chúng
ta cần tập luyện các nhân đức đối lập với thói hư. Cụ thể cần tập hai nhân đức
quan trọng này là hiền lành và khiêm nhường để nên giống Đức Giê-su như Người
đã dạy: “ Hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).
4.
THẢO LUẬN: 1) Bạn sẽ làm gì để học tập nhân đức hiền lành và khiêm nhương của
Chúa Giê-su? 2) Giả như được tin Đức Giê-su sắp đến thăm viếng nhà bạn,
thì bạn sẽ làm gì để thanh tẩy tâm hồn xứng đáng đón rước Chúa?
5.
LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin làm cho cánh cửa nhà thờ đủ
rộng để có thể đón tiếp mọi người cần đến tình thương của đồng loại. Nhưng cũng
đủ hẹp để ngăn chận các thói xấu như kiêu căng, ganh tị, bất hòa...
Xin làm cho ngưỡng cửa các nhà thờ đủ phẳng để những bước chân của
trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối đi qua đây khỏi bị vấp ngã.
Xin làm cho các nhà thờ trở thành nhà cầu nguyện và thành cổng dẫn
đưa chúng con vào Nước Chúa. (Viết theo Flor McCarthy)
- “Lạy Chúa Giê-su. Tình yêu của con.
Nếu Hội thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội
thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là trái tim,
một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giê-su. Cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội thánh: nơi trái
tim Hội thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả. Vì tình yêu bao
trùm mọi ơn gọi trong Hội thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi
ước mơ của con sẽ được thực hiện.” (Theo lời cầu của thánh nữ Têrêxa)
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM