HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
CHÚA
NHẬT 2 PHỤC SINH ABC
Cv
2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31
I.
HỌC LỜI CHÚA
1.
TIN MỪNG: Ga 20,19-31
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày
thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì
các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói:
“Bình an cho anh em !” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh
sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với
các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng
sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em
hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy
được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một
người trong nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở
với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông:
“Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu
đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt
bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các
Môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với
các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và
nói: “Bình an cho anh em” (27) Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào
đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.
Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã
thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thầy mà tin !” (30)
Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng
những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những
điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức
Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
2.
Ý CHÍNH:
Bài
Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn
đệ cách nhau một tuần lễ, để chứng minh Người đã từ cõi chết trỗi
dậy:
-
LẦN THỨ NHẤT Chúa Giê-su đã hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tô-ma.
Người đã cho các ông xem các vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi
Người thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông (23).
-
LẦN THỨ HAI sau tám ngày, Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi
hỏi của Tô-ma và khi gặp Chúa Tô-ma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giê-su đã
chúc phúc cho những ai không thấy mà tin ! (29)
3.
CHÚ THÍCH:
-
C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn
Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi
là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Từ nay ngày Chúa Nhật sẽ thay thế cho
ngày Thứ Bảy (Sa-bát) hưu lễ của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Chúa
Phục Sinh hiện đến Nhà Tiệc Ly khi cửa nhà vẫn đóng kín, cho thấy thân
xác của Người sau phục sinh mang đặc tính thiêng liêng siêu việt, có
khả năng hiện diện ở khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn
đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem
lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các Môn đệ
(x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho
thấy Chúa Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19,18),
và bị lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19,34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật
thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
-
C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai
đi”. Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Người
lại truyền cho Hội Thánh. + Người thổi hơi vào các ông và
bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi
thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam
và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng
thổi Thần Khí cho các Môn đệ. Rồi đến lượt các Môn đệ lại sẽ thông
truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu qua các phép bí tích. +
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì
người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả
giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (x
Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su
cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay,
Người còn thiết lập bí tích Giải Tội, ban quyền tha tội cho các Tông
đồ bằng việc thổi hơi để ban Thánh Thần cho các ông. Sau này các Giám
mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông quyền tha tội cho các linh
mục là những cộng sự viên của mình.
-
C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi
là Đi-đy-mô: Tô-ma
là một trong Nhóm Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”.
Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông thường nêu ra thắc mắc
để xin Thầy giải đáp (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh
ở tay Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là
đòi một thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm
(x. Ga 20,25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều
môn đệ khác cũng cứng lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm cũng nói
tới sự cứng tin của các môn đệ: Tin Mừng Mat-thêu viết: “Nhưng có mấy
ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); Tin Mừng Mác-cô thuật lại: “Người khiển
trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin
những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14); Tin
Mừng Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại hoảng hốt ?
Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38).
-
C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa
tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của
Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức
Giê-su tuy trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người lại thông cảm và
kêu gọi ông hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.
-
C 28-31: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa
sống lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng một đức tin đầy đủ nhất như
sau: Đức Giê-su vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên
Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ
đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của các tín hữu sẽ không dựa trên
kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn
cứ trên lời chứng của các Tông đồ (x. Ga 19,35). Về sau, các ông còn
làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì tin vào mầu nhiệm ấy.
4.
CÂU HỎI:
1)
Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật để thay
ngày Thứ Bảy (Sa-bát) của đạo Do thái ? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh
đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi cửa đóng kín cho thấy thân
xác của Chúa phục sinh có đặc tính gì ? 3) Qua lời chào, Chúa Phục Sinh
đã ban cho các môn đệ điều gì ? 4) Khi cho môn đệ xem tay và cạnh sườn,
Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai
của Hội Thánh phát xuất từ đâu và từ khi nào ? 6) Đức Giê-su thổi hơi ban
Thần Khí cho các môn đệ nhằm mục đích gì ? 7) Bằng chứng nào cho thấy
Đức Giê-su có quyền tha tội và Người trao quyền ấy cho Hội Thánh khi nào
? 8) Tin Mừng cho biết gì về Tông đồ Tô-ma ? 9) Các Tông đồ có phải là
những người dễ tin vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su không ? 10) Khi
hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi của
tông đồ Tô-ma ? 11) Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn vào mầu nhiệm phục
sinh qua câu nói nào ? 12) Sự cứng lòng của Tô-ma xưa có giá trị thế nào đối với đức tin của
tín hữu hôm nay ?
II.
SỐNG LỜI CHÚA:
1.
LỜI CHÚA: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức
Giê-su là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống
nhờ danh Người” (Ga 20,31).
2.
CÂU CHUYỆN:
1)
TẦM QUAN TRỌNG CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH:
Một nhà thông thái kia muốn sáng
lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan ra thuyết
phục thiên hạ nhưng chẳng có ai tin theo tôn giáo của ông. Ông bèn than thở với
anh bạn thân là Na-pô-lê-ông thì nhận được một lời khuyên như sau: “Nếu anh
muốn người ta tin theo đạo của anh thì cũng dễ thôi: Anh hãy làm như thế này:
Thứ năm hãy ăn bữa tiệc cuối cùng, rồi thứ sáu để người ta đóng đinh trên khổ
giá rồi chôn cất trong mồ. Rồi đến ngày Chúa nhật thì sống lại! Chắc chắn sẽ có
rất đông người tin theo đạo của anh !”.
Điều có sức lôi cuốn thuyết phục người
ta tin theo chính là phục sinh từ cõi chết.
2)
LÀM CHỨNG BẰNG VIỆC SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ DANH CHÚA :
Tờ
báo TIẾNG GỌI (L’Appelle) đã thuật lại một câu chuyện cảm động như
sau: Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang thực tập làm
thủy thủ trên một chiếc tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa
Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ còn duy nhất cậu bé này tin vào
Chúa.
Trong
ngày từ giã trước khi con lên tàu, bà mẹ đạo đức đã khuyên dạy con trai như
sau: “Chúa đặt con trên con tàu này là để con làm chứng nhân cho
Người”.
Từ
ngày đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ nhàn rỗi để
uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp
bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để ăn chơi sa đọa, thì
cậu bé đều ra sức ngăn cản. Nhưng không những bọn thủy thủ không nghe, mà
còn hè nhau chế diễu cậu. Chẳng hạn: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện
trước bữa ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn trước mặt giấu đi chỗ khác.
Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát chế
nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người của cậu. Đáp lại,
cậu thiếu niên luôn mỉm cười và âm thầm cầu xin Chúa tha tội cho họ.
Một
lần kia khi đang làm việc trên boong, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu
liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm
lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Khi cậu bơi lại gần tàu thì
họ lại dùng sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu bị yếu
sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối
và hét to: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa thì các bạn sẽ được ơn cứu
độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi sắp chịu chết vì danh Chúa
!” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong làm
hô hấp nhân tạo. Một hồi sau tỉnh dậy, thấy mình còn sống, cậu đã
cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa nhưng
hãy hồi tâm sám hối quay về với Chúa. Kết quả là từ ngày đó, toàn thể
thủy thủ trên tàu đều xúc động trước tấm gương trung kiên của cậu.
Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối cầu nguyện và thành tâm sám hối trở về
với Chúa.
3) LỜI NÓI HƯƠNG BAY, GƯƠNG BÀY LÔI KÉO:
Thời
đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống
trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải
cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn quỳ gối đọc kinh
trước khi đi ngủ, liệu bây giờ sống chung trong quân ngũ, anh có nên tiếp tục
quỳ đọc kinh không?
Lúc
đầu anh cảm thấy ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ vì sợ những kẻ khác dòm
ngó mà mình lại phải thay đổi cách sống hay sao?”
Nghĩ
thế anh liền quyết định cứ tiếp tục mỗi tối quỳ gối đọc kinh trước khi ngủ. Khi
đọc kinh như thế, anh nhận thấy mọi người trong phòng đều quan sát anh và biết
anh là người Công giáo. Và anh cũng phát hiện ra trong toàn trại lính chỉ có
mình anh là người Công giáo. Rồi mười phút cầu nguyện hằng ngày ấy thường là đề
tài để các bạn bè sau đó tranh cãi nhau hàng giờ.
Vào
ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đã đến nói với anh:
– Đến
nay anh chính là một người tín hữu tốt nhất mà tôi từng biết.
Anh
đápi:
–
Có lẽ tôi không dám nghĩ mình là người Kitô hữu tốt nhất, mà chỉ là người dám
công khai biểu lộ đức tin của mình mà thôi. Dầu vậy tôi cũng cảm ơn bạn về điều
bạn vừa nói. ( Trích Tuyển tập chuyện hay).
4) ĐI THEO ĐẠO
DO CẢM NGHIỆM ĐƯỢC LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA:
Có một phóng viên của một tờ báo chủ trương vô thần chống đối tôn giáo.
Một hôm anh ta tìm đến gặp một người tân tòng để làm một cuộc phỏng vấn viết
bài chống lại đạo. Anh hỏi người tân tòng:
- “Ông mới chịu phép rửa tội để gia nhập đạo Chúa phải không?
- Vâng.
- Thế thì chắc ông đã phải có kiến thức và hiểu biết nhiều về ông Giê-su.
Vậy ông hãy cho tôi biết: ông Giê-su là người nước nào ?
- Rất tiếc. Nghe đâu Đức Giê-su là người Do-thái thì phải!
- Thế ông Giê-su đi giảng đạo được mấy năm và chết năm bao nhiêu tuổi?
- Tôi có nghe nói nhưng không nhớ rõ lắm.
- Vậy, anh có biết nội dung các bài giảng của ông Giê-su hay không?
- Điều này thì tôi xin chịu!
- Như vậy là anh đã biết quá ít và mơ hồ. Vậy tại sao ông lại quyết định
đi theo đạo của ông Giê-su ?
- Anh nói như vậy cũng chỉ đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết
quá ít về Đức Giê-su. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: 3 năm trước
đây, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, lại còn bị mắc nợ chồng chất
không thể trả nổi. Mỗi tối, khi tôi về nhà trong tình trạng lè nhè, vợ và các
con tôi đều bực tức và buồn tủi… Nhưng bây giờ thì tôi đã dứt khoát với quá khứ
không tốt ấy: Tôi chừa được tật nghiện rượu và đã trả được hết nợ nần. Nhờ quen
với một vị linh mục và vị này đã tận tình giúp tôi làm lại cuộc đời. Bây giờ gia
đình tôi đã lấy lại niềm vui và hạnh phúc. Mỗi buổi chiều các con tôi đều mong đợi
tôi về nhà sau ca làm. Tất cả những điều này, tôi xác tín là do Chúa Giê-su đã thương
ban cho tôi. Và đó là lý do tại sao tôi quyết định theo đạo…
Nghe đến đó anh phóng viên đành hậm hực ra về. Anh không ngờ lại gặp một
người tín hữu có một đức tin mạnh mẽ vào Đức Ki-tô như thế…
3.
THẢO LUẬN: Để chu toàn sứ mệnh được sai đi, mỗi người chúng ta cần làm
gì để giúp anh em lương dân tin yêu Chúa để được hưởng ơn cứu độ?
4.
SUY NIỆM :
1) LỄ KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT :
- Hôm
nay, Chúa nhật thứ hai Phục sinh, là lễ tôn kính Lòng Chúa Thương Xót. Lễ này
đã được Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II thiết lập vào năm 2000, năm Nữ tu Ma-ri-a
Faus-ti-na được phong thánh. Nữ tu này đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Giê-su
và bà đã diễn tả để vẽ lên bức hình của Chúa Thương Xót với hàng chữ: “Lạy Chúa
Giê-su, Con tín thác nơi Ngài”. Trong y phục màu trắng, tay phải Chúa Giê-su
đưa lên ban phép lành, và tay trái đặt vào ngực. Từ trái tim Người phát tỏa ra
hai luồng sáng là màu đỏ và xanh lợt, tiêu biểu cho Máu và Nước đã đổ ra trong
cuộc khổ nạn, khi Trái Tim Người bị lưỡi đòng đâm thâu trên cây thập giá. Ánh
sáng xanh lợt biểu tượng cho nước rửa sạch và thanh tẩy linh hồn. Ánh sáng đỏ
biểu tượng cho máu, phát sinh sự sống mới cho linh hồn.
- Chúa
Giê-su đã đặt nữ tu Faus-ti-na là thư ký và tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót.
Người cho biết : Lòng Thương Xót của Người luôn sẵn sàng tha thứ cho những
tội nhân xấu xa nhất và cả với người tuyệt vọng nhất. Người mong muốn mọi người
hãy đi xưng tội và rước lễ để hoàn toàn nhận được ơn tha thứ trong ngày lễ kính
Lòng Chúa Thương Xót, bởi vì “Tình thương mạnh hơn tội lỗi”.
2) SỨ ĐIỆP CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT:
- Tin
Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện ra và giúp tất cả các
môn đệ được ơn hoán cải. Trong cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, tất cả các ông đều
bị vấp ngã: Các ông chạy trốn, vào trong nhà đóng cửa kỹ vì sợ người Do thái. Chính
khi đó, Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các ông. Người không những chữa lành vết
thương tâm hồn qua lời chào chúc: “Bình an » và thổi hơi ban Thần khí (Ga
20,19-20), mà Người còn sai họ đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy
cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Đây chính là bằng chứng Lòng Chúa Thương Xót dành
cho các ông.
- Riêng
tông đồ Tô-ma còn cảm nghiệm được Lòng Chúa Thương Xót khi Người cho ông không
những được nhìn thấy Chúa như các môn đệ khác, mà còn đáp ứng đòi hỏi của ông được
xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Người. Trước tình thương của
Chúa, Tô-ma đã biểu lộ lòng tin yêu qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con”. Quả thực đúng như có người đã nói: “Chính ngón tay đa nghi
của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới; chính bàn tay đa nghi của ông
đã dạy cho mọi người sự thật này là: Chúa Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy”.
3)
MẦU NHIỆM PHỤC SINH VÀ SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG:
-
Chúa Phục Sinh chính là Tin Mừng lớn lao mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của các
môn đệ, nên họ không thể không chia sẻ cho người khác: Ma-ri-a Mác-đa-la sau
khi gặp Chúa Phục Sinh đã chạy về báo tin cho Phê-rô và Gio-an rồi hai ông đã chay
ra mộ và đã đạt được đức tin; Chúa Phục Sinh cũng khiến hai môn đệ làng Em-mau
lập tức trở về Giê-ru-sa-lem để loan tin mừng các anh em; Và sau này, sau khi
gặp Chúa Phục sinh tại thành Đa-mát, Sau-lô từ một kẻ bách hại đạo Chúa đã trở
thành tông đồ hăng say đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho dân ngoại…
- Loan
báo Tin Mừng là thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa nhờ ơn Thánh Thần như lời
Chúa Giê-su: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống
trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong
khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
4)
RAO GIẢNG TIN MỪNG LÀ LÀM CHỨNG VỀ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT:
- Đức
Thánh Cha Phao-lô VI dạy: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là
thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân”.
Con người thời nay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể mới tin. Do đó, người rao
giảng cần phải chứng tỏ điều mình rao giảng trước hết bằng chính cuộc sống của
mình. Thật vậy, ai mà tin được là Tin Mừng thực sự khi chính người rao giảng
lại mang nét mặt cau có buồn rầu ? Ai mà tin được là Tin Mừng giải phóng khi
chính người rao giảng lại ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi và làm nô lệ cho các
đam mê bất chính? Ai mà tin được là Tin Mừng cứu độ khi chính người rao giảng lại
sống ích kỷ vô cảm, khi gia đình họ lại luôn bất hòa và đổ vỡ hạnh phúc?
- Trong ngày Chúa Nhật kính Lòng Chúa
Thương Xót hôm nay, cùng với thánh nữ Faus-ti-na, chúng ta hãy dâng lên Chúa
những đau khổ gặp phải trong cuộc sống như: bệnh tật, tai ương hoạn nạn và những
điều rủi ro trái ý… kết hiệp với sự đau khổ của Chúa Giê-su trên cây thập giá,
để đền tội chúng ta và mọi người. Hãy noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai làm
chứng về lòng Chúa thương xót bằng nếp sống như sau: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy,
luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu
nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm
của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số
người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chính sự phục sinh của Chúa động
viên chúng con vui mừng và can đảm vượt qua những mất mát thua thiệt
gặp phải trong cuộc sống. Ước gì chúng con biết noi gương Thiên Chúa giàu
lòng thương xót: luôn gieo sự bình an và niềm hy vọng khắp nơi, gieo niềm an
ủi cho những người bệnh hoạn tật nguyền, gieo tình thương và chia sẻ cơm
áo cho những người đói khát, giúp những ai đang lạc xa Chúa được mau trở về
để nhận được ơn cứu độ của Chúa cùng với chúng con.
X)
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM
ĐAN VINH - HHTM