HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
Kh 11,19a. 12,1-6a,10ab; 1 Cr
15,20-27;Lc 1,39-45
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã,
đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông
Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà
Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần,
(42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ,
và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân
Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng
em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì
đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà
Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui
mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương
nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã
làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50).
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ
tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ
những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.(53) Kẻ đói nghèo, Chúa
ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì
Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ
lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”.
(56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I
(39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà
mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời cộng tác vào chương trình
cứu độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an trong dạ mẹ đã hân
hoan nhảy mừng đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu độ. Phần III (46b-56): Đức
Ma-ri-a dâng lời kinh Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của Đức Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 39: +
Lên đường vội vã: Chỉ một
thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến
thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết
bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị
son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc
Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt
miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6
cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
- C 40-41: +
bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc
gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an
là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy
Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai
(Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra
đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả
được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh
Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ria đang mang
Đấng Mê-si-a đến viếng thăm nhà mình.
- C 42-44: +
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được
chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca
tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng
được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với
tôi thế này ?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ
được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là
Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin
Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em
chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ
cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết
Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
- C 45: +
Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a
đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực
hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông
Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi
các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
- C 46-50: +“Linh
hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau
khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về
cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô
phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa
cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để
thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều:
Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là
dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã
hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân
It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được
thực hiện.
- C 51-55: + Chúa
giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa
dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). +
Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ
lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời
Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên
ghi lại lời chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa
giao ước” (Lc 1,72).
- C 56: +
Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở
lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ
cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. +
rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi
con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en,
thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
4. CÂU HỎI:
1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường
viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét ?
2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy
Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ?
3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi
Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì ?
4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm
phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà ?
5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat)
có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì ?
6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu
và để làm gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà
Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được
chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a),… và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC MA-RI-A HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC
MỚI:
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm
bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật,
dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng
ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi
Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian
của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết
sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có
một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng
thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt
xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20).
Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại
lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm
Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít
đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành
này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua
Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây
dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa
lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý
Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ
Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao
Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ
hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và bệ chân của Thiên
Chúa.
+ ĐỨC MA-RI-A, HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI: Trong
Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm
Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ
hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và
quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang
Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên
dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x.
Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người,
Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết,
và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn
giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm
Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước
Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x.
Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở
cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng,
nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
2) TỪ TÍN ĐIỀU MẸ THIÊN CHÚA ĐẾN TÍN
ĐIỀU MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi
đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các
giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ
Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a
như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ
Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được
long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công
đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du
nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các
giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin
Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô
I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các
ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng
trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu
chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô:
“Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu
mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định
cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng
tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó,
năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời
như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác
tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều
hay không ?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy.
Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức
Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày
15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức
Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã
được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu
thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế,
Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng
để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư
nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài
cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ
Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
3) NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ ĐẶC ÂN HỒN XÁC
LÊN TRỜI CỦA ĐỨC MA-RI-A:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức
tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên
Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận
của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi”
(St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống
người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người
đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ
Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó
sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su,
Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở
cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch
thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ
thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn
làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại
của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Đã cộng tác với Đức
Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19 ; PI 2,6-11). Mẹ đã
tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng
được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
4) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG AI
TIN CẬY CẦU XIN NGƯỜI:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người
vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với
tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình
chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên
cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân
lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở
trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển
ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem
sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có
mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn
khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà
thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối
và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã
bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô
gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi
tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ
thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó
thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục
làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy
lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng
lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng
giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã
đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC
GIÊ-SU VÀ MẸ HỘI THÁNH :
a) Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Giê-su :
Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển
chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà
vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó
Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ làng Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem miền
Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông
lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang
có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai
hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì
hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7). Mẹ không những có phúc
vì đã cưu mang nuôi dưỡng Người, mà còn vì đã « lắng nghe và thực hành Lời
Chúa » (x. Lc 11,27-28).
b) Đức Ma-ri-a là Mẹ Hội Thánh :
-Tin Mừng Gio-an viết: “Đứng gần
thập giá Đức Giê-su có Mẹ Người, chị của Mẹ Người là bà Ma-ri-a vợ ông
Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy Mẹ và môn đệ mình thương
mến đứng bên, Đức Giê-su nói với Mẹ Người rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”.
Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ
rước bà về nhà mình (Ga 19,25-27). Theo lời trối của Thầy, môn đệ Gio-an đã đại
diện Hội Thánh đón Đức Ma-ri-a về nhà mà phụng dưỡng thay Thầy.
-Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên Chúa
đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô,
là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23);
“Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Như
vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su là Đầu, thì cũng là Mẹ của thân thể Đức
Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi tín hữu chúng ta hôm nay.
2) ĐỨC MA-RI-A ĐẦY ƠN PHÚC:
+ Ma-ri-a đầy ơn phúc và được Chúa ở
cùng như lời sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a có phúc vì tâm hồn Mẹ
trong sạch và được nhìn xem Thiên Chúa (x. Mt 5,8).
+ Ma-ri-a có phúc vì đã tin: Bà
Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa
sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức
Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức Maria chứa đựng Ngôi Lời Thiên Chúa làm
người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là Ma-ri-a có phúc vì
đã nghe và thực hành Lời Chúa như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen
ngợi người đã sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ
lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô
VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
3) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC CHÚA
TRIỆU HỒI VỀ TRỜI:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín
điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời
sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa
Giê-su và đi con đường thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng hằng
chuyển cầu cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay
Đức Mẹ để cũng được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ
Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi
cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai đã cùng Mẹ xin ơn
Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giê-su lên trời (x. Cv 1,14).
4) SỐNG TIN YÊU VÀ PHỤC VỤ LÀ ĐIỀU
KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VỀ TRỜI VỚI MẸ:
- Đức Ma-ri-a đã nêu gương sống đức
tin: Trong biến cố truyền tin, Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa dạy và
mau mắn xin vâng ý Chúa (x. Lc 1,30-36). Hôm nay chúng ta cũng phải năng đến nhà
thờ dâng lễ Chúa Nhật, lắng nghe Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày,
tham dự nhóm Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần để gia tăng đức tin, nhờ đó sẽ có thể
tích cực loan báo Tin Mừng bằng đời sống chứng nhân bác ái.
- Đức Ma-ri-a
cũng nêu gương sống tình
thương cụ thể: Mẹ dấn thân đi bước trước đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, để đem
niềm vui ơn cứu độ cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an “nhảy
mừng’ trong lòng mẹ. Sau đó Mẹ đã ở lại 3 tháng để giúp đỡ cho tới khi bà này
sinh con, rồi mới về lại nhà mình (x. Lc 1,39-56). Về sau Mẹ còn quan tâm giúp
đôi tân hôn tại thành Ca-na bằng việc cầu bầu với Đức Giê-su và đã được Người
nghe lời làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon (x. Ga 2,1-11).
- Tình thương nơi Mẹ Ma-ri-a luôn gắn liền
với hành động cụ thể là chia sẻ và phục vụ : Hôm nay mỗi tín hữu chúng ta muốn
được lên trời với Mẹ cũng phải sống tin yêu, bằng việc thăm viếng tha nhân để
chia sẻ tình thương và khiêm nhường phục vụ những người đau khổ cả về thể xác
cũng như tinh thần, như có người đã phát biểu: “Có
thể người ta cho mà không thương, nhưng không thể thương mà không cho”.
4. THẢO LUẬN: Việc
về trời của Đức Mẹ (Lễ Mông Triệu) giống và khác với việc lên trời của Chúa
Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao ? Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau
này cũng được Chúa ban thưởng hạnh phúc về trời với Mẹ ?
5. NGUYỆN CẦU:
« LẠY ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN
TỪ. Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin
bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”.
Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn
cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con
biết chạy đến với Mẹ trong cơn gian nan thử thách : khi bị thất bại trong
việc làm ăn, những khi không biết phải làm gì để vượt qua khó khăn… Trong
những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới
tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban
cho chúng con muôn ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con
đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su, như
Mẹ đã dạy các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na : « Người bảo gì, các anh cứ việc
làm theo » (Ga 2,5).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM