HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 18 TN B
Xh 16,2-4.12-15; Ep 4,17.20-24; Ga 6,24-35
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG :
Ga 6,24-35
(24) Vậy khi dân chúng thấy
đức Giê-su cũng như các môn đệ đều
không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm kiếm Người. (25) Khi đã
gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?
(26) Đức Giê-su đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi không phải
vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. (27) Các ông
hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực
thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các
ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (28) Họ
liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”
(29) Đức Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng
Người đã sai đến” (30) Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho
chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na
trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi Trời” (32) Đức Giê-su
đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh
bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực.
(33) Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế
gian” (34) Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.
(35) Đức Giê-su bảo họ: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi, không hề
phải đói. Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
2. Ý CHÍNH : TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI
MÀ ĐẾN :
Đức Giê-su cảnh cáo dân chúng đi tìm Người vì
muốn được ăn thứ bánh vật chất mau hư nát. Ngay cả Man-na thời
xuất Hành cũng không phải là bánh
bởi trời thực sự và không cứu được cho người ta khỏi chết. Họ cần phải đi tìm
Bánh bởi trời đích thực là Đức Giê-su, Đấng từ trời mà đến và ban sự sống đời
đời cho trần gian. Bánh Hằng Sống đó chính là Mình Máu Đức Giê-su trong bí tích
Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập.
3. CHÚ THÍCH :
- C 24-25 : + Ca-phác-na-um :
Là một thành phố thuộc xứ Galilê, nằm trên bờ biển hồ Tibêria. Đức Giê-su lấy
thành Ca-phác-na-um làm trung tâm hoạt động suốt thời gian đi giảng đạo công
khai. Tại đây, Người đã nhiều lần rao giảng trong các hội đường (x. Mc 1,21),
làm nhiều phép lạ như : Xua trừ ma quỷ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh cảm sốt cho
nhạc mẫu Phêrô và nhiều bệnh nhân khác (x. Mc 1,29-31.32-34), chữa lành một phụ
nữ bệnh loạn huyết 12 năm và làm cho con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại
(x. Mc 5,21-43), giảng về Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,24-66)… Về sau thành này cũng
là một trong các thành của dân Do Thái bị Đức Giê-su quở trách, vì họ đã được
chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà vẫn tỏ thái độ cứng lòng không tin vào
Người (x. Mt 11,23-24). + Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ :
Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều trong hoang địa, vì biết dân chúng muốn tôn mình
làm vua, nên Đức Giê-su đã lánh lên núi một mình (x. Ga 6,15). Sau đó Người đi
trên mặt nước đến với thuyền của các môn đệ và sang bờ bên kia Biển Hồ là thành
Ca-phác-na-um.
- C 26-27) : + Các ông đi tìm tôi không phải
vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê :
Đức Giê-su cảnh báo dân chúng về động lực đi tìm Người là do vụ lợi : để được ăn
bánh no nê mà không phải vất vả làm việc. + Các ông hãy ra công làm việc
không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại
phúc trường sinh : Đức Giê-su chấp nhận nhu cầu về lương thực là bánh ăn
vật chất nuôi sống thân xác, nên Người đã làm phép lạ cho họ được ăn no. Nhưng
Người còn muốn dạy rằng : Trên thể xác còn có linh hồn tồn tại mãi mãi. Chính
Người sẽ ban cho họ thứ lương thực nuôi sống linh hồn là Bí Tích Thánh Thể mà
Người sắp thiết lập. + Con Người : Là một nhân vật thần thiêng mà
Ngôn sứ Đa-ni-en trong một thị kiến đã xem thấy đang đứng bên Thiên Chúa (x. Đn
7,13-14). Khi tự xưng mình là Con Người từ trời mà đến, Đức Giê-su muốn cho
người ta thấy Người là Sứ giả đích thực của Chúa Cha, được Thánh Thần thánh hiến
trở thành Đấng Thiên Sai và Thánh Thần sẽ giúp Đức Giê-su chu toàn sứ vụ ấy (x.
Lc 4,18 ; Is 61,1-2). + Là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận :
Dấu ấn là một vật dùng để xác định nguồn gốc thay cho chữ ký. Ngoài việc dấu ấn
được in trên giấy tờ, bao bì hay các vật khác để làm bằng chứng bảo đảm sự chân
thực, người ta còn dùng dấu ấn để niêm phong mồ mả (x. Mt 27,66). Ngoài ra, dấu
ấn hay ấn tín cũng được dùng theo nghĩa bóng như lời Thánh Phao-lô : “Chính
Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo
chứng” (2 Cr 1,22). Câu này cho thấy Chúa Cha đã đóng dấu ấn trên Đức Giê-su như
một dấu chứng để xác nhận Người thực là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
- C 28-29 : + Chúng tôi phải làm gì ? :
Đây là câu hỏi bày tỏ thiện chí muốn đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa sau khi nghe
giảng Tin Mừng, như đám đông đã hỏi ông Gio-an Tẩy Giả tại sông Gio-đan (x. Lc
3,10.12.14), hay dân chúng hỏi ông Phê-rô sau khi nghe ông giảng vào lễ Ngũ Tuần
tại Giê-ru-sa-lem (x.Cv 2,37). + Tin vào Đấng Người đã sai đến :
Đấng Thiên Chúa sai đến ở đây là Đức Giê-su.
- C 30-31 : + Ông làm được dấu lạ nào cho
chúng tôi thấy để tin ông ? : Dù
mới chứng kiến phép lạ nhân bánh ra nhiều vào chiều hôm trước, nhưng dân chúng
vẫn chưa thỏa mãn. Họ đòi một phép lạ đặc biệt phát xuất từ trời để minh chứng
sứ mạng Thiên Sai của Người, giống như Mô-sê xưa đã làm phép lạ cho man-na từ
trời mưa xuống để nuôi dân Ít-ra-en suốt 40 năm trong sa mạc, nên man-na được
gọi là bánh bởi trời. + Man-na : Phát xuất do từ “Mannu ?”, nghĩa
là “Cái gì vậy ?”, vì dân Ít-ra-en không biết đó là cái gì (x. Xh 16,15). Mô-sê
bảo dân rằng: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn !”. Như vậy, Man-na
chính là lương thực lạ lùng mà Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en, khi họ đi qua
sa mạc về Miền Đất Hứa (x. Xh 16,11-18). Man-na có hình dạng giống như hạt ngò,
màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong (x. Xh 16,31). Trông nó
như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà
nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh (x. Ds 11,7-8). Man-na là hình bóng của
Lời Chúa, là của ăn được Đức Chúa ban để dân Ít-ra-en biết rằng : “Người ta sống
không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn sống nhờ mọi Lời do miệng Đức Chúa phán ra” (x.
Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Khi dân Ít-ra-en vào tới Đất hứa là xứ Ca-na-an và bắt đầu
trồng và thu hoạch được các loại thổ sản tại đó, thì Man-na không còn rơi xuống
nữa (x. Gs 5,12). Cũng vậy, trong thời gian lưu lạc trần gian, các tín hữu cũng
được ăn lương thực thiêng liêng là Mình Thánh Chúa để đủ sức về tới Đất Hứa
Thiên Đàng, được tham dự Bữa Tiệc Cánh Chung trong Nước Trời với Đức Giê-su (x.
Lc 22,30), và ngồi đồng bàn với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp của dân
Do Thái (x. Mt 8,11).
- C 32-33 : + Không phải ông Mô-sê đã cho
các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi :
Đức Giê-su đã giúp dân chúng hiểu rõ : Man-na được ban thời kỳ Xuất Hành không
phải do Mô-sê, nhưng do Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en. Ngoài ra man-na cũng
không thực sự là Bánh của Thiên Chúa, mà chỉ là thứ luơng thực vật chất mau hư
nát và chỉ có khả năng nuôi sống thể xác mà thôi (x. Xh 16,19-21), vì dù đã ăn
man-na, thế mà dân Do thái cũng vẫn phải chết (x. Xh 32,33-35). + Bánh
Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian
: Để được gọi là Bánh của Thiên Chúa thì cần hai đặc tính là xuất phát từ
trời, và ban sự sống muôn đời. Bánh ấy chính là Đức Giê-su. Người vừa là Ngôi
Lời vốn ở trên trời, được Chúa Cha sai xuống làm Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,14), và
Người sắp ban Mình Máu Người làm lương thực đem lại sự sống muôn đời cho người
lãnh nhận (x. Ga 6,51).
- C 34-35: + Chính tôi là Bánh Trường Sinh:
Kiểu nói “Tôi là” thường được Đức Giê-su dùng và Tin Mừng Gio-an đã ghi lại một
số Lời Chúa có hai tiếng “Tôi là” như sau: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga
6,34); “Tôi là Ánh Sáng Thế Gian” (x. Ga 8,12; 9,5); “Tôi là Cửa cho chiên ra
vào” (x. Ga 10,7); “Tôi là Mục Tử nhân lành” (x. Ga 10,11) ; “Tôi là Sự Sống Lại
và là Sự Sống” (x. Ga 11,25); “Tôi là Con Đường, là Sự Thật và Là Sự Sống” (x.
Ga 14,6); “Tôi là Cây Nho thật” (x. Ga 15,1). Trong câu nói trên, khi khẳng
định: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh”, Đức Giê-su muốn nói về bí tích Thánh Thể
mà Người sắp lập. Qua bí tích đó Người sẽ hóa nên bánh thiêng nuôi dưỡng người
dương thế và đem lại hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. + Ai đến với tôi, không
hề phải đói ; Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ: Người hứa sẽ ban cho
những ai lãnh nhận bí tích Thánh Thể được no thỏa; Cho những ai đặt trọn niềm
tin nơi Người thỏa mãn khát vọng được sống vĩnh cửu.
4. CÂU HỎI : 1) Bạn biết gì về thành
Ca-phác-na-um? 2) Khi nói lên động cơ đi tìm Chúa của dân chúng là tìm bánh ăn
vật chất, Đức Giê-su muốn họ phải tìm kiếm điều gì khi đến với Người? 3) Tại sao
Đức Giê-su tự xưng là Con Người? 4) Đức Giê-su trả lời cho dân chúng biết họ cần
phải làm gì sau khi nghe Người giảng Tin Mừng? 5) Dân Do Thái đòi Đức Giê-su làm
gì để chứng minh sứ mạng Thiên Sai của Người? 6) Thời Mô-sê danh từ Man-na ám
chỉ điều gì? Man-na được ban cho ai ăn và nhằm mục đích gì? Trong Tân Ước Man-na
ám chỉ điều gì? 7) Bánh bởi Trời thực sự phải có những đặc tính nào? 7) Khi tự
xưng “Tôi Là Bánh Trường Sinh”, Đức Giê-su muốn nói gì về Người? 8) Người hứa
ban cho những ai chịu phép Thánh Thể được ơn gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Chính Tôi là bánh trường
sinh. ai đến với Tôi, không hề phải đói. ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ !”
2. CÂU CHUYỆN :
1) ĐÓN NHẬN ĐỨC TIN NHỜ TIN VÀO BÍ TÍCH
THÁNH THỂ:
HÉC-MAN KON (Hermann Cohn) là người Do Thái và
là một tài năng xuất chúng về đàn dương cầm (Pianô). Anh là học trò xuất sắc của
Phăng Lít (Franz Liszt), một nhạc sĩ nổi tiếng tài hoa vào lúc đó. Kon cùng với
mấy người bạn thân thành lập một ban nhạc trẻ và đi đó đây biểu diễn âm nhạc để
kiếm sống. Sau khi đã có nhiều tiền và bị bạn bè cám dỗ, Kon đã tìm đến những
nơi hàng quán để ăn chơi trụy lạc. Rồi một ngày kia, một người bạn thân của Kon
là ca trưởng một ca đoàn nhà thờ, do thiếu người đánh đàn, đã mời Kon đến đánh
đàn giúp ca đoàn hát thánh ca trong một buổi dâng hoa kính Đức Mẹ tại nhà thờ.
Buổi dâng hoa hôm ấy kết thúc bằng giờ chầu
Mình Thánh Chúa. Mặc dù không phải là người công giáo, nhưng khi vị chủ sự ban
phép lành Mình Thánh Chúa, thì tự nhiên Kon cảm thấy như có một sức mạnh vô hình
bắt anh phải quì gối cúi đầu thờ lạy Chúa. Kon không lý giải được tại sao lại có
hiện tượng trên. Sau đó, Kon tiếp tục đến nhà thờ và cảm thấy có một Đấng nào đó
hiện diện ở trong anh, và thôi thúc anh đi tìm gặp Chúa Giê-su. Sau đó anh xin
học đạo nơi một linh mục trẻ và được người bạn ca trưởng tặng cho cuốn sách tựa
đề là: “Các kinh nguyện trong Thánh lễ”. Kon đã say sưa đọc đi đọc lại nhiều lần
phần Kinh Nguyện Thánh Thể. Về sau anh đã chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa Giê-su
như sau: “Trong thời thơ ấu, tôi thường hay khóc mỗi lần bị cha mẹ sửa phạt vì
làm sai một điều gì đó. Nhưng chưa khi nào nước mắt tôi lại chảy ra nhiều như
lúc bấy giờ. Đột nhiên tôi nhận ra các tội lỗi mình đã phạm bấy lâu nay, tôi
thấy rõ những sự xấu xa hèn hạ của tôi và tôi nghĩ mình đáng bị phạt trong hỏa
ngục. Nhưng sau khi khóc hết nước mắt, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Tôi xác tín
rằng : Chúa nhân lành đã thấu hiểu lòng tôi, đã tha thứ lỗi lầm cho tôi để tôi
xứng đáng nên con cái Người”.
Sau đó, Kon được học giáo lý và được chịu phép
rửa tội gia nhập đạo công giáo, rồi ông xin nhập vào dòng Các-me-lô. Trong nhà
dòng, Thầy Kon đã được học các môn về triết lý và thần học, thực tập các nhân
đức, và bảy năm sau thày đã được thụ phong linh mục. Tân linh mục Kon đã được
nhiều người công nhận là một linh mục đạo đức. Cha nhiệt thành rao giảng Tin
Mừng và thường chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa cho những người chưa biết Chúa.
Nhiều người nhờ tiếp xúc với cha cũng gặp được Chúa. Chính nhờ sự hướng dẫn của
cha mà cả thầy dậy đàn là nhạc sĩ Phăng Lít và 10 bạn thân thời thơ ấu cũng đã
tin Chúa và xin gia nhập đạo.
2) TIN CHÚA GIÊ-SU LÀ BÁNH TRƯỜNG SINH THÌ
SẼ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI:
MÉ-ZE-RAY (1610-1689) là một sử gia danh tiếng
của nước Pháp. Cả đời ông không tin có thần thánh. Hơn nữa ông còn coi đạo công
giáo là mê tín dị đoan. Năm 1683 lúc ốm nặng nằm trên giường bệnh, biết mình sắp
chết, ông đã nhờ người nhà mời linh mục đến dạy đạo và rửa tội cho ông. Nghe tin
này, bạn bè thân thiết rủ nhau đến thăm và cùng nhau ngăn cản ông theo đạo.
Nhưng Mé-ze-ray đã nói với họ rằng:
- Này các bạn, như các bạn đã biết: Cả đời tôi
không tin tưởng vào thần thánh. Nhưng thời gian nằm trên giường bệnh chờ thần
chết đến, tự nhiên tôi thấy nảy ra trong đầu óc tôi thắc mắc này: Tại sao tôi
lại phải chết giữa lúc còn đang ham sống? Ai bắt tôi phải chết giữa lúc tôi còn
chưa muốn chết? Các bác sĩ thời danh nhất cũng không thể chữa cho tôi khỏi chết
được? Chính các bác sĩ tuy có thể chữa cho nhiều người khỏi bệnh, nhưng rồi cuối
cùng chính các ông cũng phải chết! Thắc mắc này, khoa học không thể giải đáp cho
tôi thỏa mãn được, nên tôi đã đến với đức tin công giáo và đã tin vào Thiên
Chúa. Vậy các bạn hãy tin tôi: Mé-ze-ray lúc sắp chết đáng tin hơn Mé-ze-ray khi
còn khỏe mạnh”.
3)
CHIA SẺ
TÌNH THƯƠNG LÀ CÁCH
GIỚI THIỆU CHÚA TỐT NHẤT:
Một hôm một lão hành khất trên đường
phố đã gặp Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta và chìa tay ra xin bố thí. Bà lục lọi hết các
túi áo mà không tìm thấy một đồng tiền nào. Bà đành vỗ vai ông lão, vừa cười vừa
nói lời xin lỗi vì không có gì để tặng cho ông. Bấy giờ lão hành khất liền nói:
“Hôm nay bà đã cho tôi một món quà quí giá nhất mà từ trước đến giờ tôi chưa bao
giờ nhận được. Món quà đó chính là nụ cười cảm thông và một sự an ủi đầy tình
người của bà. Tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc, vì tôi đã được bà tôn trọng và
đối xử bình đẳng !”.
Như vậy điều quan trọng phải làm là hãy chia sẻ
niềm vui cho những người bất hạnh, để qua chúng ta họ gặp được Chúa và tin yêu
Chúa, để được chia sẻ sự sống đời đời với chúng ta.
4) SỐNG ĐƯỢC CHỈ NHỜ BÁNH THÁNH THỂ:
Năm 1868, một cô gái người Bỉ yếu ớt được in
năm dấu thánh tên là LOUIS LATEAU. Từ ngày đó, cô không còn ăn uống gì nữa.
Trong bảy năm trời, cô sống được là nhờ rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày.
Trường hợp tương tự cũng xảy ra với chị TÊRÊSA
NEWMAN và cô MATTA ROBIN, người đã sáng lập Tu hội Bác Ái. Những điều kỳ diệu đó
phần nào chứng minh cho lời Chúa phán: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh…”
(Mt 4,4).- “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để
có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người
sẽ ban cho các ông” (Ga 6, 27). Thế, lương thực Chúa nói ở đây là gì?
Chúa Giê-su đã khẳng định: “Chính tôi là Bánh
Trường Sinh” (Ga 6,35). Để có tấm bánh, trước hết cần có hạt giống. Hạt giống
được gieo trong ruộng, rồi được tưới bón, làm cỏ… Cây lúa cần ánh nắng mặt trời
để lớn lên và đến mùa trổ bông kết hạt. Rồi phải được gặt hái, xay nhuyễn thành
bột mì. Bột được nhào nặn thành bánh và được nướng chín trong lò.
Đức Giê-su, tấm bánh được Thiên Chúa ban cũng
đã trải qua những công đoạn tương tự. Người đã được Chúa Cha gieo vào ruộng trần
gian, nơi cung lòng Trinh Nữ Maria. Người được lớn lên dưới ánh mặt trời làng
Na-gia-rét. Năm ba mươi tuổi Người chịu phép rửa của Gio-an Tẩy Giả tại sông
Gióc-đan và được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Người đi khắp nơi rao
giảng Tin Mừng Nước Trời và ban ơn lành hồn xác cho đám đông dân chúng theo
Người. Sau cùng, Người đã bị nghiền nát và được nướng chín trong cuộc tử nạn và
phục sinh, để trở nên Bánh Thánh Thể ban sự sống đời đời cho chúng ta.
3. THẢO LUẬN : Trong những ngày này, tôi sẽ
làm gì cụ thể để chia sẻ tình thương và niềm tin cho những người chưa nhận biết
Chúa bên cạnh và chịu nhiều bất hạnh?
4. SUY NIỆM :
1) Phép lạ nhân bánh ra nhiều
của Đức Giê-su:
Hơn ai hết, Đức Giê-su thấu hiểu cơm
bánh vật chất là một nhu cầu không thể thiếu để con người được sống, nên Người
đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng được ăn một bữa no
nê. Người cũng dạy môn đệ cầu Chúa Cha ban bánh ăn hằng ngày như lời kinh Lạy
Cha : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Tuy nhiên, Người
muốn mọi người hiểu rằng: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”, nhưng họ còn
có những khát vọng mà chỉ mình Đức Giê-su mới có thể thỏa mãn là tin vào Người
là “Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Nhờ Người mà chúng ta sẽ được thỏa mãn
các nhu cầu tinh thần và đạt được hạnh phúc trọn vẹn.
2) Cần đi tìm Chúa để đón nhận
hồng ân cứu độ:
Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều, đám
đông dân chúng đã đi tìm Đức Giê-su để được Người ban cho của ăn mà không cần
phải vất vả làm việc. Đức Giê-su không chấp nhận điều đó, nên Người nói với họ:
"Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy
dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê". Đức Giê-su mời gọi dân chúng
hãy lo tìm của ăn thiêng liêng mang lại sự sống đời đời chứ đừng chỉ đi tìm
lương thực vật chất hư nát: "Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau
hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh" (Ga 6, 27).
3) Lời Chúa và Thánh Thể là lương
thực ban ơn cứu độ:
Ông Phê-rô đã hiểu được giá trị của
lương thực thiêng liêng chính là Lời Chúa và Bánh Thánh Thể nên đã thưa với Đức
Giê-su: “Chỉ có Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Chính
Đức Giê-su cũng dạy về hiệu quả của Bánh Thánh Thể như sau: “Ai ăn Thịt và uống
Máu Tôi thì được sống muôn đời… Đây là Bánh từ trời xuống, không phải như bánh
tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai
ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54.58). Mỗi ngày các tín hữu chúng ta
hãy siêng năng tham dự thánh lễ để đón nhận hai của ăn thiêng liêng là Lời Chúa
và Thánh Thể Chúa. Nhờ đón nhận được hai của ăn đó chúng ta mới được sống đời
đời.
4) Chia sẻ tình thương và niềm vui ơn cứu độ
cho tha nhân:
- Ngoài cơn đói cơm bánh vật chất, người ta còn
có nhiều cơn đói khác cần được thỏa mãn như: Cơn đói muốn được tôn trọng; Đói
muốn được giao tiếp với người khác. Nhất là cơn đói tình thương ơn cứu độ. Đức Giêsu đã không làm phép lạ
cho Manna từ trời rơi xuống cho dân chúng ăn như dân Do thái thời kỳ xuất hành,
nhưng Người đã nhân bánh ra nhiều là hình ảnh của bí tích Thánh Thể Người sẽ
thiết lập như Người đã phán: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh, Ai đến với tôi
không hề phải đói. Ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ” (Ga.6,35).
- Trong những ngày này, sau
khi dự lễ và đã được thỏa mãn cơn đói
Lời Chúa và Mình Thánh Chúa,
mỗi tín hữu chúng ta cũng cần mang
bánh Thánh Thể là tình thương ơn cứu độ
đến cho bạn bè
chưa biết Chúa,
các bệnh nhân liệt giường, các người già
neo đơn nghèo khó, các đôi vợ
chồng bất hạnh có nguy cơ
đổ vỡ hạnh phúc… để chia sẻ niềm vui
ơn cứu độ cho họ, noi gương Mẹ
Ma-ri-a
mang Chúa đi
thăm và chia sẻ niềm vui ơn cứu độ
cho gia đình Gia-ca-ri-a.
- Trong những ngày này, chúng ta sẽ làm gì để
trở thành những Ki-tô khác? : Trở nên tấm bánh chia sẻ cho những người nghèo khó;
nên cánh tay phục vụ những kẻ yếu đuối; nên bạn đồng hành với những kẻ cô đơn;
nên ánh lửa hy vọng sưởi ấm con tim của tất cả mọi người.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Cơm ăn áo mặc tiền bạc của cải
là những nhu cầu không thể thiếu cho cuộc sống thể xác. Ma quỷ luôn cám dỗ chúng
con đi tìm kiếm chúng, thay vì lẽ ra trước hết chúng con phải lo tìm kiếm Nước
Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn những thứ kia như cơm ăn áo mặc, của
cải vật chất và các nhu cầu thể xác khác thì Chúa sẽ ban cho chúng con sau.
Lạy Chúa, chúng con rất sợ bị lâm vào cảnh
nghèo đói bần cùng, nên thường mải mê tìm kiếm những của cải chóng qua mà chẳng
thiết tha gì với của cải thiêng liêng là Lời Chúa và Thánh Thể Chúa. Xin Chúa
tha thứ và giúp chúng con luôn biết tìm kiếm Chúa là hạnh phúc và là lẽ sống của
cuộc đời chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA
NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM