HIỆP SỐNG TIN MỪNG CHÚA NHẬT 18 TN B
Xh 16,2-4.12-15; Ep 4,17.20-24; Ga 6,24-35
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG :
Ga 6,24-35
(24) Vậy khi dân chúng thấy
Đức
Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum
tìm kiếm Người. (25) Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa
Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy? (26) Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông:
Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã
được ăn bánh no nê. (27) Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực
mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ
lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên
Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (28) Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để
thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (29) Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa
muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (30) Họ lại hỏi: “Vậy
chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì
đây? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã
cho họ ăn bánh bởi Trời” (32) Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Không
phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các
ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực. (33) Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ
trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (34) Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin
cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy. (35) Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là Bánh
Trường Sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi, chẳng khát bao
giờ !”
2. Ý CHÍNH : TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI MÀ ĐẾN :
Đức Giêsu cảnh cáo dân chúng đi tìm Người vì muốn được ăn thứ bánh vật chất mau
hư nát. Ngay cả Manna thời kỳ
Xuất
Hành cũng không phải là bánh bởi trời thực sự và không cứu được cho người ta
khỏi phải chết. Họ cần phải tìm kiếm thứ Bánh bởi trời đích thực tức là Con
Người, Đấng từ trời mà đến và ban sự sống vĩnh hằng cho trần gian. Bánh Hằng
Sống đó chính là Mình Máu Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết
lập.
3. CHÚ THÍCH :
- C 24-25 : +
Caphácnaum
:
Là một thành phố thuộc xứ Galilê, nằm trên bờ biển hồ Tibêria. Đức Giêsu lấy
thành Caphácnaum làm trung tâm hoạt động suốt thời gian đi giảng đạo công khai.
Tại đây, Người đã nhiều lần rao giảng trong các hội đường (x. Mc 1,21), làm
nhiều phép lạ như : Xua trừ ma quỷ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh cảm sốt cho nhạc
mẫu Phêrô và nhiều bệnh nhân khác (x. Mc 1,29-31.32-34), chữa lành một phụ nữ
bệnh loạn huyết 12 năm và làm cho con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x.
Mc 5,21-43), giảng về Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,24-66)… Về sau thành này cũng là
một trong các thành của dân Do Thái bị Đức Giêsu quở trách, vì họ đã được chứng
kiến nhiều phép lạ Người làm mà vẫn tỏ thái độ cứng lòng không tin vào Người (x.
Mt 11,23-24).
+
Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ
:
Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều trong hoang địa, vì biết dân chúng muốn tôn mình
làm vua, nên Đức Giêsu đã lánh lên núi một mình (x. Ga 6,15). Sau đó Người đi
trên mặt nước đến với thuyền của các môn đệ và sang bờ bên kia Biển Hồ là thành
Caphácnaum.
- C 26-27) :
+ Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã
được ăn bánh no nê :
Đức Giêsu cảnh báo dân chúng về động lực đi tìm Người là do vụ lợi : để được ăn
bánh no nê mà không phải vất vả làm việc.
+ Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có
lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh :
Đức Giêsu chấp nhận nhu cầu về lương thực là bánh ăn vật chất nuôi sống thân
xác, nên Người đã làm phép lạ cho họ được ăn no. Nhưng Người còn muốn dạy rằng :
Trên cuộc sống thể xác còn có linh hồn tồn tại mãi mãi. Chính Người sẽ ban cho
họ thứ lương thực nuôi sống linh hồn là Bí Tích Thánh Thể mà Người sắp thiết
lập.
+ Con Người :
Là một nhân vật thần thiêng mà Ngôn sứ Đa-ni-en trong một thị kiến đã xem thấy
đang đứng bên Thiên Chúa (x. Đn 7,13-14). Khi tự xưng mình là Con Người từ trời
mà đến, Đức Giêsu muốn cho người ta thấy Người là Sứ giả đích thực của Chúa Cha,
được Thánh Thần thánh hiến trở thành Đấng Thiên Sai và sẽ giúp Người chu toàn sứ
vụ ấy (x. Lc 4,18 ; Is 61,1-2).
+ Là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận :
Dấu ấn là một vật dùng để xác định nguồn gốc thay cho chữ ký. Ngoài việc dấu ấn
được in trên giấy tờ, bao bì hay các vật khác để làm bằng chứng bảo đảm sự chân
thực, người ta còn dùng dấu ấn để niêm phong mồ mả (x. Mt 27,66). Ngoài ra, dấu
ấn hay ấn tín cũng được dùng theo nghĩa bóng như lời Thánh Phaolô : “Chính Người
cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo
chứng” (2 Cr 1,22). Câu này cho thấy Chúa Cha đã đóng dấu ấn trên Đức Giêsu làm
bảo chứng để xác nhận Người chính là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
- C 28-29 :
+ Chúng tôi phải làm gì ? :
Đây là câu hỏi bày tỏ thiện chí muốn đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa sau khi nghe
giảng Tin Mừng, như đám đông đã hỏi ông Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan (x. Lc
3,10.12.14), hay dân chúng hỏi ông Phêrô sau khi nghe ông giảng vào lễ Ngũ Tuần
tại Giêrusalem (x.Cv 2,37).
+ Tin vào Đấng Người đã sai đến :
Đấng Thiên Chúa sai đến ở đây là Đức Giêsu.
- C 30-31 :
+ Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? :
Dù mới chứng kiến phép lạ nhân bánh ra nhiều vào chiều hôm trước, nhưng dân
chúng vẫn chưa thỏa mãn. Họ đòi một phép lạ đặc biệt phát xuất từ trời để minh
chứng sứ mạng Thiên Sai của Người, giống như Môsê xưa đã làm phép lạ cho manna
từ trời mưa xuống để nuôi dân Ítraen suốt 40 năm trong sa mạc, nên manna được
gọi là bánh bởi trời.
+ Manna :
Phát xuất do từ “Mannu ?”, nghĩa là “Cái gì vậy ?”, vì dân Ítraen không biết đó
là cái gì (x. Xh 16,15). Môsê bảo dân rằng: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em
làm của ăn !”. Như vậy, Manna chính là lương thực lạ lùng mà Đức Chúa đã ban cho
dân Ítraen, khi họ đi qua sa mạc về Miền Đất Hứa (x. Xh 16,11-18). Manna có hình
dạng giống như hạt ngò, màu trắng
và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong (x. Xh 16,31). Trông nó như nhựa hương. Dân
cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ
vào nồi nấu bánh (x. Ds 11,7-8). Manna là hình bóng của Lời Chúa, là của ăn được
Đức Chúa ban để dân Ítraen biết rằng : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà
còn sống nhờ mọi Lời do miệng Đức Chúa phán ra” (x. Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Khi dân
Ítraen vào tới Đất hứa là xứ Canaan và bắt đầu trồng và thu hoạch được các loại
thổ sản tại đó, thì Manna không còn rơi xuống nữa (x. Gs 5,12). Cũng vậy, trong
thời gian lưu lạc trần gian, các tín hữu cũng được ăn lương thực thiêng liêng là
Mình Thánh Chúa để đủ sức về tới Đất Hứa Thiên Đàng, được tham dự Bữa Tiệc Cánh
Chung trong Nước Trời với Đức Giêsu (x. Lc 22,30), và ngồi đồng bàn với các tổ
phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp của dân Do Thái (x. Mt 8,11).
- C 32-33 : +
Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi :
Đức Giêsu đã giúp dân chúng hiểu rõ : Manna được ban thời kỳ Xuất Hành không
phải do Môsê, nhưng do Đức Chúa đã ban cho dân Ítraen. Ngoài ra manna cũng không
thực sự là Bánh của Thiên Chúa, mà chỉ là thứ luơng thực vật chất mau hư nát và
có khả năng nuôi sống thể xác mà thôi (x. Xh 16,19-21), vì dù có ăn manna, dân
Do thái cũng vẫn phải chết (x. Xh 32,33-35).
+
Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế
gian
:
Để được gọi là Bánh của Thiên Chúa thì cần hai đặc tính là xuất phát từ trời, và
ban sự sống muôn đời. Bánh ấy chính là Đức Giêsu. Người vừa là Ngôi Lời vốn ở
trên trời, được Chúa Cha sai xuống làm Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,14), và Người sắp
ban Mình Máu Người làm lương thực đem lại sự sống muôn đời cho người lãnh nhận
(x. Ga 6,51).
- C 34-35:
+ Chính tôi là Bánh Trường Sinh:
Kiểu nói “Tôi là” thường được Đức Giêsu dùng và Gioan đã ghi lại một số Lời Chúa
có hai tiếng “Tôi là” như sau: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga 6,34); “Tôi
là Ánh Sáng Thế Gian” (x. Ga 8,12; 9,5); “Tôi là Cửa cho chiên ra vào” (x. Ga
10,7); “Tôi là Mục Tử nhân lành” (x. Ga 10,11) ; “Tôi là Sự Sống Lại và là Sự
Sống” (x. Ga 11,25); “Tôi là Con Đường, là Sự Thật và Là Sự Sống” (x. Ga 14,6);
“Tôi là Cây Nho thật” (x. Ga 15,1). Trong câu nói trên, khi khẳng định: “Chính
Tôi là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muốn nói về bí tích Thánh Thể mà Người sắp
lập. Qua bí tích đó Người sẽ hóa nên bánh thiêng nuôi dưỡng người dương thế và
đem lại hạnh phúc vĩnh hằng đời sau.
+ Ai đến với tôi, không hề phải đói ; Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ:
Người hứa sẽ ban cho những ai lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể được no thỏa; Cho
những ai đặt trọn niềm tin nơi Người thỏa mãn khát vọng được sống vĩnh cửu.
4. CÂU HỎI : 1) Bạn biết gì về thành Caphácnaum? 2) Khi nói lên động cơ đi tìm
Chúa của dân chúng là tìm bánh ăn vật chất, Đức Giêsu muốn họ phải tìm kiếm điều
gì khi đến với Người? 3) Tại sao Đức Giêsu tự xưng là Con Người? 4) Đức Giêsu
trả lời cho dân chúng biết họ cần phải làm gì sau khi nghe Người giảng Tin Mừng?
5) Dân Do Thái đòi Đức Giêsu làm gì để chứng minh cho sứ mạng Thiên Sai của
Người? 6) Thời Môsê danh từ Manna ám chỉ điều gì? Manna được ban cho ai ăn và
nhằm mục đích gì? Trong Tân Ước Manna ám chỉ điều gì? 7) Bánh bởi Trời thực sự
phải có những đặc tính nào? 7) Khi tự xưng “Tôi Là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu
muốn nói gì về Người? 8) Người hứa ban cho những ai chịu phép Thánh Thể được
những ơn ích gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Chính Tôi là bánh trường sinh. ai đến với Tôi, không hề phải đói.
ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ !”
2. CÂU CHUYỆN :
1) NHẬN ĐƯỢC ĐỨC TIN NHỜ BÍ TÍCH THÁNH THỂ :
HÉC-MAN KON (Hermann Cohn) là người Do Thái và là một tài năng xuất chúng về đàn
dương cầm (Pianô). Anh là học trò xuất sắc của PhăngLít (Franz Liszt), một nhạc
sĩ nổi tiếng tài hoa vào lúc đó. Kon cùng với mấy người bạn thân thành lập một
ban nhạc trẻ và đi đó đây biểu diễn âm nhạc để kiếm sống. Sau khi đã có nhiều
tiền và bị bạn bè cám dỗ, Kon đã tìm đến những nơi hàng quán để ăn chơi trụy
lạc. Rồi một ngày kia, một người bạn thân của Kon là ca trưởng một ca đoàn nhà
thờ, do thiếu người đánh đàn, đã mời Kon cộng tác đàn giúp ca đoàn hát thánh ca
trong một buổi dâng hoa kính Đức Mẹ tại nhà thờ.
Buổi dâng hoa hôm ấy kết thúc bằng giờ chầu Mình Thánh Chúa. Mặc dù không
phải là người công giáo, nhưng khi vị chủ sự ban phép lành Mình Thánh Chúa, thì
tự nhiên Kon cảm thấy như có một sức mạnh vô hình bắt anh phải quì gối cúi đầu
thờ lạy Chúa. Kon không lý giải được tại sao lại có hiện tượng trên. Sau đó, Kon
tiếp tục đến nhà thờ và cảm thấy có một Đấng nào đó hiện diện ở trong anh, và
thôi thúc anh đi tìm gặp Chúa. Sau đó anh xin học đạo nơi một linh mục trẻ và
được người bạn ca trưởng tặng cho cuốn sách tựa đề là: “Các kinh nguyện trong
Thánh lễ”. Kon đã say sưa đọc đi đọc lại nhiều lần phần Kinh Nguyện Thánh Thể.
Về sau anh đã chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa Giêsu như sau: “Trong thời thơ ấu,
tôi thường hay khóc mỗi lần bị cha mẹ sửa phạt vì làm sai một lỗi nào đó. Nhưng
chưa khi nào nước mắt tôi lại chảy ra nhiều như lúc bấy giờ. Khi ấy, đột nhiên
tôi nhìn ra các tội lỗi của mình đã phạm bấy lâu nay, tôi thấy rõ những sự xấu
xa hèn hạ của tôi và tôi nghĩ mình đáng bị phạt trong hỏa ngục. Nhưng sau khi đã
khóc hết nước mắt, tôi đã cảm thấy tâm hồn mình được bình an. Tôi xác tín rằng :
Chúa nhân lành đã thấu hiểu lòng tôi, đã tha thứ lỗi lầm cho tôi để tôi xứng
đáng trở nên con cái của Người”.
Sau đó, Kon được lãnh phép rửa tội gia nhập vào Hội Thánh, rồi xin nhập vào
dòng Các-me-lô. Trong nhà dòng, Thầy Kon đã được học các môn học về triết lý và
thần học, thực tập các nhân đức, và bảy năm sau thày đã được thụ phong linh mục.
Tân linh mục Kon đã được nhiều người công nhận là một linh mục có lòng đạo đức.
Cha nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và cha thường chia sẻ kinh nghiệm gặp được
Chúa cho người chưa biết Chúa. Nhiều người nhờ tiếp xúc với cha nên cũng gặp
được Chúa. Chính nhờ sự hướng dẫn của cha mà cả thầy dậy đàn là nhạc sĩ
Phăng-Lít và 10 bạn thân thời thơ ấu cũng đã tin vào Chúa Giêsu và đã được lãnh
nhận phép rửa tội.
2) THĂM VIẾNG CHIA SẺ TÌNH NGƯỜI:
Một hôm một lão hành khất gặp Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta trên đường phố và đã chìa
tay ra xin bố thí. Bà lục lọi hết các túi áo mà không tìm ra một đồng tiền nào,
bà đành vỗ vai ông lão vừa cười vừa nói lời xin lỗi vì không có gì để tặng ông.
Bấy giờ lão hành khất đã nói: “Hôm nay bà đã cho tôi một món quà quí giá nhất mà
từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhận được. Món quà đó là nụ cười cảm thông và
sự an ủi đầy tình người của bà. Tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc, vì tôi đã
được bà tôn trọng và được đối xử bình đẳng !”. Điều quan trọng là phải mang lại
niềm vui tâm hồn cho những người chúng ta gặp gỡ tiếp xúc.
3. THẢO LUẬN : Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì cụ thể để chia sẻ tình thương
và niềm tin cho những người chưa nhận biết Chúa và đang chịu nhiều bất hạnh khổ
đau ?
4. SUY NIỆM :
+ Hơn ai hết, Đức Giêsu đã am hiểu cơm bánh vật chất là một nhu cầu không
thể thiếu để con người được sống, và Người đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều
nuôi đám đông dân chúng ăn một bữa no nê. Người cũng dạy môn đệ cầu nguyện trong
kinh Lạy Cha : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Tuy nhiên,
“Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”, nhưng còn có những khát vọng mà chỉ mình
Đức Giêsu mới có thể thỏa mãn họ, là lòng khao khát muốn gặp Đức Giêsu. Vì Người
là “Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Nhờ Người mà chúng ta sẽ được thỏa mãn
các nhu cầu tinh thần như : Muốn hiểu biết về chân lý đức tin, muốn yêu và được
yêu, muốn được tha nhân cảm thông chia sẻ… Nhờ được thỏa mãn các nhu cầu này mà
con người mới đạt được niềm vui và sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
+ Lời Chúa và Mình thánh Chúa là hai của ăn thần linh mang lại cho các tín
hữu sự sống muôn đời, như thánh Phêrô đã thưa với Đức Giêsu : “Chỉ có Thầy mới
có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68), hay như lời Chúa phán trong Tin
Mừng hôm nay: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời… Đây là Bánh từ
trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn Bánh
này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54.58). Mỗi ngày chúng ta nên tham dự thánh lễ
để đón nhận được hai thứ lương thực thiêng liêng của Đức Giêsu ban cho là Lời
Chúa và Mình Thánh Chúa. Nhờ đó chúng ta sẽ có sự sống muôn đời.
+ Cần biết chia sẻ Chúa là niềm vui ơn cứu độ cho tha nhân: Sau khi tham dự
thánh lễ, chúng ta đã nhận được ơn Chúa ban qua hai của ăn là Lời Chúa và Mình
Thánh Chúa. Chúng ta cần mang Chúa đến viếng thăm những người lương dân, những
anh chị em bệnh tật lâu ngày, những gia đình bất hạnh… để chia sẻ niềm vui ơn
cứu độ cho họ, như thai nhi Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng vì được ơn cứu độ của
thai nhi cứu thế Giêsu do Đức Maria mang đến thăm viếng.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Của cải vật chất và cơm ăn áo mặc là những nhu cầu không thể
thiếu của thân xác con người. Chúng thường cám dỗ lôi kéo con tìm kiếm chúng
thay vì phải tìm kiếm Chúa mới thực là lẽ sống cuộc đời của con. Lạy Chúa, từ
trong thâm tâm, con rất sợ bị nghèo đói bần hàn, và con luôn khao khát có một
cuộc sống dư dật sung sướng. Con thường mải mê tìm kiếm những của cải vật chất
đến nỗi chẳng còn thiết tha với việc cầu nguyện, dự lễ và tuân giữ các giới răn.
Xin Chúa thương tha thứ tội lỗi và bù đắp những thiếu sót của con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM