HIỆP SỐNG TIN MỪNG CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B
Ed 2,2-5; 2 Cr 12,7-10; Mc 6,1-6
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Mc 6,1-6
(1) Đức Giê-su ra khỏi đó, và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo.
(2) Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe
rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói : “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn
ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là
gì ? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông
Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con
lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người. (4) Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn
sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con
thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. (5) Người đã không thể làm được
phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ.
(6) Người lấy làm lạ vì họ không tin.
2.Ý CHÍNH :
Sau một thời gian đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su đã về
thăm quê hương là làng Na-da-rét. Dân làng ngạc nhiên trước lời giảng khôn ngoan
và thán phục trước các phép lạ Người làm ở khắp nơi. Nhưng họ lại đặt nghi vấn
về thân thế dòng dõi của Người và không tin Người có thể là Đấng Thiên Sai. vì
họ cứng lòng tin nên Đức Giê-su đã không làm nhiều phép lạ tại đó.
3.CHÚ THÍCH :
-C 1-2 : +
Đến nơi quê quán của Người,
có
các môn đệ đi theo:
Đức Giê-su trở về quê hương Na-da-rét của Người (x. Mt 2,23). Làng này không mấy
nổi danh như ông Na-tha-na-en đã nhận xét : “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay
được ?” (x. Ga 1,46). Đức Giê-su về Na-da-rét để thăm thân nhân, và cũng để thi
hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời ở đó nữa.
+
Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường
:
Tại các hội đường Do Thái, dân làng có thói quen tập trung vào ngày Sa-bát để
nghe các kinh sư đọc và giải thích Kinh Thánh. Trong các buổi cầu nguyện này,
người ta cũng thường hay mời các kinh sư hay các bậc vị vọng đến giảng dạy. Đức
Giê-su đã nổi tiếng khắp nơi nên cũng được mời lên bục giảng. Dân làng ngạc
nhiên về giáo lý của Người, nhất là khi nghe biết các phép lạ Người đã từng làm
tại thành Ca-phác-na-um.
-C 3 : +
Là bác thợ
:
Nhưng rồi dân làng Na-da-rét lại tỏ vẻ khinh thường nghề thợ mộc mà Đức Giê-su
đã học cha nuôi là Giô-xép.
+
Con bà Ma-ri-a
:
Họ không nhắc đến Giô-xép (hay Giu-se), có lẽ vì ông đã qua đời từ lâu, mà chỉ
nhắc đến bà Ma-ri-a là một phụ nữ bình thường.
+
Anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông
không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?
:
Anh chị em được nêu tên ở đây chứng minh gia thế Đức Giê-su không có gì đặc
biệt. Tuy nhiên, có người lại dựa vào câu này để phủ nhận đức đồng trinh trọn
đời của Đức Ma-ri-a, vì theo họ: ngoài Đức Giê-su ra, bà còn sinh thêm nhiều con
trai con gái khác. Thực ra, anh chị em nói đây chỉ là anh chị em bà con mà thôi
(x. St 13,8; 14,16). Chẳng hạn: Gia-cô-bê và Giô-xép là con của bà Ma-ri-a vợ
ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27,56; Ga 19,25), Giu-đa là con của ông Gia-cô-bê (x. Lc
6,16). Ngay từ ban đầu, Giáo Hội Công giáo luôn khẳng định: Đức Giê-su là “con
trai đầu lòng” (x. Lc 2,7) và “Người con duy nhất” của Đức Ma-ri-a. Cũng vì thế
mà khi sắp tắt thở trên thập giá Đức Giê-su đã trối Mẹ Người cho môn đệ Gio-an,
và từ giờ đó Gio-an đã đón bà về nhà mà phụng dưỡng (x. Ga 19,27). Cuối cùng,
nếu những người này thực là con của Đức Ma-ri-a, thì dân làng đã phải nói là
“các em trai của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay vì nói từ chung chung
“anh em ông” và “chị em ông”.
+
Và họ vấp ngã vì Người
:
Theo Thánh Phao-lô và thánh Phê-rô thì: Đối với những kẻ kiêu căng cứng lòng
tin, thì Đức Giê-su đã trở nên viên đá chướng ngại (x Rm 9,33; 1 Pr 2,7-8). Tin
Mừng Lu-ca cũng viết “viên đá bị loại ra” là Đức Giê-su, đã trở nên “viên đá
góc”. Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này rơi trúng ai, sẽ làm
người ấy nát thịt” (Lc 20,18).
-C 4-6 : + “Ngôn
sứ có bị rẻ rúng…”
:
Câu này tương tự như câu : “Bụt nhà không thiêng !”. Dân làng Na-da-rét đã vấp
ngã trước những yếu tố nhân loại của Đức Giê-su như : Làm nghề thợ mộc là nghề
tay chân hèn kém, có những thân nhân bình thường… Đó là những chướng ngại khiến
họ không tin Người thực sự là Đấng Thiên Sai.
+
Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó
:
Trước khi làm phép lạ cứu nhân độ thế, Đức Giê-su luôn đòi người ta phải có đức
tin. Chẳng hạn: Người bảo bệnh nhân: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”
(Mc 5,34); Người nói với ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36),
hay nói với người mù ở Giê-ri-cô: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !”
(Mc 10,52). Tại làng Na-da-rét, vì không tin, nên dân làng đã không xứng đáng
được Đức Giê-su ban ơn là tại đây Người đã không làm nhiều phép lạ như ở những
nơi khác.
4.CÂU HỎI : 1) Đức Giê-su về thăm quê hương Na-da-rét nhằm mục đích gì ? 2) Dân
làng tập trung tại hội đường vào các ngày Sa-bát để làm gì ? 3) Dân làng
Na-da-rét đánh giá thế nào về Đức Giê-su sau khi nghe Người giảng dạy ? 4) Dân
làng có thành kiến thế nào về nghề thợ mộc và về thân nhân tầm thường của Đức
Giê-su ? 5) Phải chăng Đức Ma-ri-a đã không trọn đời đồng trinh, vì ngòai Đức
Giê-su, Tin Mừng hôm nay còn kể ra tên nhiều anh em và chị em khác của Người ?
6) Dân làng Na-da-rét đã dựa vào đâu để không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai ?
7) Tại sao Đức Giê-su đã không làm nhiều phép lạ tại quê hương Người ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao ?” (Mc
6,3).
2.CÂU CHUYỆN :
1) BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG:
Trong truyện cổ Trung hoa có câu chuyện như sau: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà
nghèo, nhưng vẫn chăm chỉ làm lụng để kiếm tiền về phụng dưỡng tỏ lòng hiếu thảo
với cha mẹ. Một hôm nghe bên đất Thục có một vị đại sư tên là Võ Tề rất nổi
tiếng, Dương Phủ liền xin phép cha mẹ để đi tầm sư học đạo. Đi được nửa đường,
Dương Phủ gặp một lão ông quen biết. Hai người hàn huyên nói chuyện và sau khi
biết Dương Phủ muốn bỏ nhà đi tu học với vị đại sư Võ Tề, lão ông liền khuyên
anh như sau: “Gặp đại sư Võ Tề, chẳng bằng gặp Đức Phật”.
Dương phủ lại hỏi: “Gặp Đức Phật ở đâu?”
Lão ông bảo: Anh hãy quay về nhà. Khi thấy người nào quấn vải trên người và đi
dép ngược thì đó chính là Đức Phật.
Dương phủ vâng nghe lời lão ông quay về nhà. Trên đường trở về, anh để ý tìm
nhưng không gặp một ai có đặc điểm như lão ông đã chỉ. Khi về tới nhà lúc ban
đêm, anh gọi cửa. Mẹ anh nghe tiếng con trai rất vui, vội quấn chiếc mền đang
đắp lên người để tránh bị lạnh, xỏ chân vào đôi dép nhưng đi ngược mà bà cũng
không quan tâm, rồi vội vàng chạy ra mở cửa đón con vào nhà. Bấy giờ anh nhìn
kỹ, thấy mẹ anh giống như đặc điểm đức Phật mà lão ông đã nói trước là quấn khăn
vải trên người và chân đi dép ngược.
Anh đã ngộ ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ và người thân ở
trong cùng nhà với mình. Và anh đã yêu thương phục vụ Đức Phật là chính cha mẹ
của anh như câu người xưa dạy: “Tu đâu cho bằng tu nhà; Thờ cha kính mẹ mới là
đạo con”.
2) CHINH PHỤC LÒNG NGƯỜI BẰNG LÒNG BÁC ÁI
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng thuộc
Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Ta-ban đã bỏ nhà chạy sang nước
láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào
chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong linh mục. Khi tình hình ở Su Đăng
lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ vụ linh
mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka.
Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như cha đã
thuật lại: “Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh nói
cái gì vậy? Anh mà là Linh mục ư? Thật là khó tin!”.
Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một linh mục nào người da
đen cả. Giáo xứ luôn được các linh mục thừa sai người da trắng đến chăm sóc và
đã chia sẻ cho họ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban
lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên ngài chẳng có gì để phân
phát như các linh mục da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha
Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ thánh lễ theo đường hướng công đồng Va-ti-can
II. Giáo dân đã xầm xì với nhau: “Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ
bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng la tinh. Chắc ông ta không rành tiếng la
tinh nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là linh mục thật hay giả?”. Phải mất
10 năm, sau bao nhiêu vất vả phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị
khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.
3. THẢO LUẬN : Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta cần ứng xử thế nào trước
thái độ nghi ngờ, khinh thường hay những lời khiếm nhã khích bác của những kẻ
thù ghét chống lại Chúa Giêsu và Hội thánh?
4. SUY NIỆM :
1)"Ông ta không phải là bác thợ sao?":
Câu chuyện về Linh mục Ta-ban giúp chúng ta hiểu lý do tại sao Đức Giê-su bị dân
làng cùng quê Na-da-rét không tin là Đấng Thiên Sai, dù họ có thán phục về tài
giảng dạy và quyền năng chữa bệnh của Người. Sở dĩ họ không tin vì họ có thành
kiến khi bị vấp phạm về gia thế hèn kém của Người: “Bởi đâu ông ta được như thế
? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? (x Mc 6,2-3). Thời Giáo hội
sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) thù ghét đạo đã có lần chế
diễu các Ki-tô hữu như sau: “Giê-su Đấng sáng lập đạo của các người chỉ là một
gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường! Thật khó mà
chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bé, phải vất
vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế !”
Còn chúng ta hôm nay chắc cũng không hơn gì đức tin của dân làng Na-da-rét khi
xưa: Chúng ta thường nghĩ rằng: Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự.
Nhưng Tin Mừng hôm nay lại cho thấy một Đức Giê-su Con Thiên Chúa chịu bó tay
trước sự cứng lòng của con người, như Tin Mừng đã ghi nhận: “Người đã không thể
làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa
lành họ (Mc 6,5).
Từ đó cho thấy con người có thể dùng sự tự do Chúa ban để từ chối ơn cứu độ như
dân làng Na-da-rét do thành kiến đã không tin và từ chối ơn cứu độ do Đức Giê-su
mang lại.
2) Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó:
Phép lạ là món quà đặc biệt Chúa ban cho con người, nhưng người ta chỉ có thể
đón nhận được phép lạ với lòng tin. Biết bao điều lạ lùng Thiên Chúa muốn thực
hiện cho loài người nhưng người đời đã từ chối, giống như các chủ quán ở Be-lem
năm xưa đã xua đuổi Chúa Cứu Thế giáng sinh ra khỏi nhà trọ, như Tin Mừng Gio-an
viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Thực vậy: Đức Giê-su đến mặc khải Thiên Chúa là Cha yêu thương và Người là Con
Thiên Chúa thì họ đã kết án Người là kẻ phạm thượng, là kẻ bị quỷ ám và điên
khùng. Người đến đem bình an, chân lý và thiết lập nước Trời thì bị mang tiếng
là xách động quần chúng và là kẻ cầm đầu phản loạn. Cuối cùng, các đầu mục dân
Do thái đã ra tay bắt bớ và kết án tử hình cho Đức Giê-su rồi còn làm áp lực đòi
Tổng Trấn Phi-la-tô kết án tử hình thập giá cho Người.
Ngoài thành kiến thì sự cứng lòng là nguyên nhân khiến người ta cố chấp không
muốn nhìn, không muốn nghe, không muốn tin… như Tin Mừng ghi nhận: “Thế là đối
với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai
nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra
chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng
hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành (Mt 13,13-15).
3) Và họ vấp ngã vì Người:
Vì các người đồng hương quá biết rõ về dòng dõi, gia cảnh của Đức Giê-su: Người
chỉ là con bác thợ mộc Giu-se và bà Maria là những người đang chung sống giữa họ.
Do đầu óc thủ cựu đầy thành kiến nên họ đã không nhận ra Thiên tính nơi con
người của Đức Giê-su, dù họ có thán phục về tài ăn nói lưu loát và về sự hiểu
biết Kinh Thánh của Người. Một số người trong bọn họ cũng đã được chứng kiến
nhiều phép lạ Đức Giê-su đã làm ở Ca-phác-na-um và các nơi khác để cứu chữa các
bệnh nhân, những người bị quỷ ám, phục sinh kẻ chết... Nhưng do kiêu ngạo, cố
chấp, dân làng Na-da-rét đã không tin một Đấng Cứu Thế lại có lối sống quá giản
dị, xuất thân từ cha mẹ nghèo hèn như Đức Giê-su, nên họ đã có những lời nói, cử
chỉ bất kính thể hiện sự không tin Người.
4) “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”:
Tiên tri hay ngôn sứ là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người
ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài cho họ. Kết quả
của lời cảnh báo thường sẽ là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2:5). Thậm
chí, lắm khi đe doạ họ còn đe dọa mạng sống của các ngôn sứ, nhất là khi các ông
phải tuyên sấm lời Chúa cáo trách tội lỗi của các vua quan. Thánh Kinh đã ghi
lại ngôn sứ Nathan dám tố cáo tội ngoại tình, giết người, cướp vợ của vua Đavít;
hay tiên tri Elia, dám nói thẳng với vua Akhab việc ông vua này đã giết Nabot và
chiếm đoạt tài sản của cách bất công... Kết quả là các ngôn sứ đã bị hận thù
giết hại. Chính Đức Giê-su cũng đã bị các người đồng hương Na-da-rét coi thường
nên Người đã phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê
hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc
6,4). Dù bị khinh thường, nhưng Đức Giê-su vẫn thi hành sứ vụ: “Người đã đặt tay
trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Rồi Người đi sang các làng khác mà rao
giảng Tin Mừng.
Mỗi tín hữu chúng ta khi chịu phép rửa tội cũng được tham phần vào chức vụ ngôn
sứ của Chúa Giê-su, nên cũng có bổn phận phải loan báo Tin Mừng, bảo vệ sự sống,
bênh vực công lý nhân danh Thiên Chúa. Nhưng thử hỏi người đời có sẵn sàng nghe
lời chúng ta rao giảng không khi chúng ta lại có lối sống phản chứng: ăn nói
gian ngoa, lọc lừa, tham lam, nghiện ngập, sống thiếu tình người… Cần phải cấp
thời tu sửa đời sống trở nên tốt lành noi gương Đức Giê-su, để công việc rao
giảng Tin Mừng của chúng ta mới có điều kiện đạt được kết quả tốt đẹp.
5.LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chịu thất bại trước sự cứng
tin của người đồng hương và bà con họ hàng. Nhiều lần chúng con cũng đành phải
chịu thất bại khi bị người lương từ chối nói chuyện về Chúa và có khi họ còn
thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh… Xin ban cho chúng con ơn kiên
nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải trên bước đường rao giảng Tin Mừng. Cho
chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công được người khác lắng
nghe cũng như lúc bị từ chối xua đuổi. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn
vì biết rằng: Thất bại là mẹ thành công. Chính Chúa xưa cũng đã từng chịu thất
bại trước sự cứng tin của những đồng hương Na-da-rét. Nhưng Người không nản lòng
thối lui, mà luôn trung thành đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang” của Chúa
Cha, qua sự chết để sống lại hầu ban ơn cứu độ cho loài người.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM