HIỆP SỐNG TIN MỪNG CHÚA NHẬT 13 TN B
Kn 1,13-15;2,23-24 ; 2 Cr 8,7-9.13-15 ; Mc 5,21-43.
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Mc 5,21-43
(21) Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại
quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. (22) Có một ông trưởng hội
đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người,
(23) và khẩn khoản nài xin : “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay
lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. (24) Người liền ra đi với ông. Một
đám rất đông đi theo và chen lấn Người. (25) Có một bà kia bị băng huyết đã mười
hai năm, (26) bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại
sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (27) Được nghe đồn về
Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người,
(28) vì bà tự nhủ : “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.(29) Tức
khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. (30) Ngay lúc đó,
Đức Giêsu cảm thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại giữa
đám đông mà hỏi : “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. (31) Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám
đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. (32) Đức Giêsu
ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. (33) Bà này sợ phát run lên, vì biết
cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật
với Người. (34) Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con.
Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (35) Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy
người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy
chi nữa?” (36) Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội
đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. (37) Rồi Người không cho ai đi theo mình,
trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông là ông Gio-an. (38) Các Ngài đến nhà ông
trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39) Người bước
vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó
ngủ đấy!”. (40) Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha
mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. (41) Người cầm
lấy tay nó và nói : “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con:
Trỗi dậy đi !”. (42) Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai
tuổi. Và lập tức người ta kinh ngạc sững sờ. (43) Đức Giêsu nghiêm cấm họ không
được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
2.Ý CHÍNH
: Ông trưởng hội đường tên Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm
tin vào Đức Giêsu nên đã được Người cho sống lại. Trong lúc đi đường, một phụ nữ
bị bệnh băng huyết cũng nhờ tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giêsu nên
cũng được lành bệnh. Điều này cho thấy: Đức Giêsu đến để giải thoát loài người
khỏi hậu quả của tội lỗi là bệnh tật và sự chết. Tuy nhiên, để được hưởng ơn cứu
độ ấy, người ta phải đặt trọn niềm tin vào Người.
3.CHÚ THÍCH :
-C 21-24 :
+
Bờ Biển Hồ
:
Biển Hồ nói đây có nhiều tên: là Biển Hồ Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1) hay
Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1). Đây là Biển Hồ có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12
km. Tại Biển Hồ này Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ như: dẹp yên sóng gió (x. Mc
4,35-41), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-7), đi trên mặt biển (x. Ga 6,16-21). Cũng
tại vùng Biển Hồ này, Đức Giêsu đã chữa lành các bệnh nhân (x. Mt 14,14.35-36).
Hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-21; 15,32-39).+
Viên trưởng hội đường:
Là người phụ trách việc phụng tự trong hội đường Do Thái. Khi đi giảng đạo, Đức
Giêsu thường đến các hội đường Do Thái vào ngày Sa-bát để rao giảng Tin Mừng và
chữa bệnh (x. Mt 4,23; Lc 4,31-37.44).
+ Ông ta sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin:
Thái độ sụp xuống dưới chân Đức Giêsu và nài xin Người cho thấy đức tin mạnh mẽ
của ông.
+ “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu
thoát và được sống” :
Đặt tay là khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa người đặt tay và vật hay người
được đặt tay. Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân ám chỉ các phép bí tích do Đức Giêsu
lập ra sau này để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
-C 25-28:
+ Bà kia bị băng huyết đã mười hai năm:
Bệnh băng huyết là một loại bệnh phụ khoa, làm cho người phụ nữ bị ra ô uế theo
Luật. Bệnh nhân bị bệnh này không được đụng chạm tới ai để tránh cho họ khỏi trở
nên ô uế (x. Lv 15,25-27).
+
Bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, vì bà tự
nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”:
Chính nhờ tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giêsu, mà bà này đã vượt qua
đám đông để tới gần Đức Giêsu và bà còn dám vượt qua Lề Luật để đưa tay ra chạm
vào áo của Người.
-C 29-31:
+ Bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh:
Chạm đến áo Đức Giêsu cho thấy cử chỉ bên ngoài thân xác cũng có giá trị làm
phát sinh đức tin trong tâm hồn. Nhờ đức tin mà bệnh nhân được khỏi bệnh.
+ “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”:
Đức Giêsu muốn cho người phụ nữ ý thức rằng: chị ta được khỏi bệnh do quyền năng
phát xuất từ Người và do ý định của Người chủ động thực hiện. Câu hỏi của Chúa
còn có mục đích cho các môn đệ và đám đông dân chúng biết rõ về phép lạ đó, để
họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai.
-C 32-34 :
+ Bà này sợ đến phát run, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình :
Bà sợ vì việc làm của bà đã vi phạm Luật Mô-sê tưởng là chỉ mình bà biết, nhưng
đã bị Đức Giêsu phát hiện.
+ Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người :
Đức tin của người đàn bà này lúc đầu chỉ là sự mê tín dị đoan. Nhưng giờ đây
được Đức Giêsu quan tâm sửa dạy, đã trở thành đức tin đúng đắn vững mạnh, thúc
bách bà thêm can đảm đến phủ phục và thú nhận sự thật với Người.
+ “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn
bệnh”
:
Đức Giêsu cho thấy chính Người đã chữa lành cho người đàn bà vì bà đã tin tưởng
cậy trông vào Người, chứ không phải cái áo Người đang mặc chữa lành bệnh cho bà.
-C 35-37 :
+ “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa ? :
Qua câu này, người nhà ông trưởng hội đường không tin Đức Giêsu có thể phục sinh
kẻ chết. Câu này cũng là dịp thử thách đức tin của ông Gia-ia.
+ “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”:
Sự im lặng của Gia-ia khi nghe báo tin con gái ông đã chết, cho thấy ông vẫn
kiên trì với đức tin. Vì thế, Đức Giêsu đã khích lệ ông : “Chỉ cần tin thôi” hay
“Cứ vững tin là được”. Qua câu này, Đức Giêsu muốn cho Gia-ia đừng để đức tin bị
chao đảo, như có lần Người đã nói : “Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng
tin” (Mc 9,23).
+ Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này
là ông Gio-an :
Ba ông này luôn theo sát Đức Giêsu trong các biến cố quan trọng (x. Mc 5,37;
9,2; 14,33). Dù muốn giữ bí mật đối với đám đông, nhưng Đức Giêsu cũng cho ba
môn đệ thân tín đi theo để sau này họ kể lại cho hậu thế biết (x. Ga 19,35). Sở
dĩ phải ba ông, vì theo Luật Mô-sê thì lời chứng của ba người mới có giá trị (x.
Đnl 19,15; Mt 18,16).
-C 38-40 :
+ “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ?”
:
Những người khóc lóc kêu la nói đây là những người khóc mướn. Họ được tang gia
nhờ cậy để khóc than to tiếng mỗi khi có khách đến viếng người chết.
+ Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy ! :
Trong Thánh Kinh, sự chết được diễn tả bằng nhiều kiểu nói : “Một số đã an nghỉ”
(x. 1 Cr 15,6); “Về những ai đã an giấc ngàn thu” (x. 1 Tx 4,13); “an giấc trong
Đức Giêsu” (x. 1 Tx 4,14). Khi nghe biết La-da-rô chết, Đức Giêsu cũng nói :
“La-da-rô bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11,11). Ở đây, khi khẳng định cô
bé chưa chết, mà chỉ đang ngủ đó thôi, là Đức Giêsu báo trước việc Người sắp cho
em sống lại, được thức dậy sau một giấc ngủ.
+ Họ chế nhạo Người, nhưng Người bắt họ ra ngoài :
Sự kiện này cho thấy : Những người không tin và chế nhạo thì không đáng được
chứng kiến phép lạ như có lần Người đã nói : “Không nên lấy của thánh mà ném cho
chó. Cũng không nên vất ngọc trai trước mặt con heo !”.+
Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm :
Chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé, và ba môn đệ là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là
những kẻ có thiện chí và đức tin nên được Người cho chứng kiến phép lạ để gia
tăng đức tin. Vì “ai có sẽ được cho thêm để nên dư dật !”.
-C 41-43 :
+ “Này bé, Thầy truyền cho con : Chỗi dậy đi !”:
Cũng như khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời là mọi sự xuất
hiện (x. St 1,3.6.9.11.14), ở đây Đức Giêsu cũng chỉ ra lệnh là em bé kia lập
tức sống lại. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu làm chủ trên cả người sống lẫn kẻ chết
(x. Mt 28,18).
+ Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy :
Khi cấm các môn đệ không được nói ra phép lạ này là để tránh sự bồng bột quá
khích của dân Do Thái bấy giờ đang có quan niệm ái quốc cực đoan về Đấng Thiên
Sai. Phải chờ đến ngày Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, ba môn đệ này mới thuật
lại phép lạ mà các ông đã chứng kiến.
4.CÂU HỎI : 1) Biển Hồ nói đây là biển gì ? Đức Giêsu đã làm các phép lạ nào
trên Biển Hồ và trong khu vực này ? 2) Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu
thường làm gì tại các hội đường Do thái ? 3) Lòng tin của ông trưởng hội đường
vào Đức Giêsu biểu lộ qua thái độ nào ? 4) Cử chỉ đặt tay của Đức Giêsu nói lên
điều gì ? 5) Vì sao người đàn bà này lại bị Luật Mô-sê cấm đụng chạm tới người
khác ? 6) Lý do nào khiến bà ta dám vượt qua điều Luật cấm để đến gần chạm vào
áo Đức Giêsu ? 7) Tại sao Đức Giêsu lại hỏi đám đông : ”Ai đã sờ vào áo Tôi ?”
8) Tại sao người đàn bà bị bệnh lại sợ khi nghe Đức Giêsu hỏi đám đông ? 9)Tại
sao Đức Giêsu lại đòi người đàn bà phải công khai thú nhận mình đã được khỏi
bệnh ? 10) Đức Giêsu nói câu nào để xác định chính Người chứ không phải áo Người
đang mặc đã chữa bệnh cho người đàn bà ? 11) Đức Giêsu đã nói gì với ông Gia-ia
để khích lệ ông vững tin ? 12) Ba môn đệ nào được chứng kiến phép lạ Đức Giêsu
phuc sinh cô bé ? Ba ông này còn được đi theo Chúa trong những trường hợp nào
khác nữa ? 13) Trong Thánh Kinh có những câu nào diễn tả sự chết như một giấc
ngủ ? 14) Tại nhà Gia-ia, tại sao Đức Giêsu không cho những kẻ cười nhạo Người ở
lại ? Những ai đã được chứng kiến phép lạ Người làm ? 15) Đức Giêsu đã làm gì để
phục sinh cô bé ? 16) Tại sao Đức Giêsu cấm Môn đệ nói ra phép lạ này ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Người nói với bà ta : “Lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình
an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Đức Tin vâng phục của tổ phụ Áp-ra-ham:
Ông Áp-ram khi đã già yếu đã gặp được Đức Chúa và được Ngài chọn làm tổ phụ của
một dòng giống tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển. Ngài cũng đổi tên
ông từ Áp-ram trở thành Áp-ra-ham, nghĩa là “Cha của những kẻ có lòng tin”. Tổ
phụ Áp-ra-ham đã nêu gương tin cậy vâng phục Đức Chúa. Mãi đến năm 90 tuổi
Áp-ra-ham mới được Chúa ban cho một đứa con trai đặt tên là I-sa-ác. Nhưng năm
I-sa-ác được 12 tuổi, Đức Chúa một lần nữa đã thử thách đức tin của ông bằng
việc ra lệnh cho ông đem đứa con trai duy nhất đi sát tế dâng cho Đức Chúa trên
núi. Dù khó chấp nhận điều này, nhưng Áp-ra-ham vẫn tín thác cậy trông và tuyệt
đối vâng lời Đức Chúa. Ông đã cùng con trai đi leo lên núi cao và lập một bàn
thờ để giết con làm lễ vật tiến dâng cho Đức Chúa, theo như phong tục của chư
dân thời bấy giờ. Thấy rõ đức tin tuyệt đối của Áp-ra-ham, Đức Chúa đã sai một
thiên thần đến ngăn tay ông lại và thay vì dâng con trai, ông được Chúa cho thế
bằng một con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Rồi sau đó Đức Chúa đã tái xác
nhận những điều Ngài hứa với ông trước đó. Cuối cùng Áp-ra-ham đã thực sự trở
thành tổ phụ của một dân tộc tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển như
hiện nay (St 22,1-18).
2. HÃY TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA CHÚA.
Một hôm lúc chiều tà trên bãi biển ẩm ướt, một thanh niên đang đi bách bộ với
Chúa Giêsu, hai Thầy trò vừa đi vừa đàm đạo với nhau. Trên mặt cát ướt đều in
lại bốn dấu bàn chân của hai thầy trò. Khi đi ngược lại, chàng thanh niên rất
ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của hai thầy trò, nhưng
có lúc lại chỉ thấy còn hai dấu chân. Chàng ta nghĩ đó là hai dấu chân của mình
nên hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi nãy Thầy ở đâu để con phải đi một mình như thế ?”
Chúa Giêsu liền trả lời: “Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấu chân đó là của ai ?”
Sau khi quan sát kỹ, chàng ta công nhận là hai dấu chân của Chúa. Nhưng chàng
lại tiếp tục hỏi: “Vậy lạy Chúa, con đang ở đâu trong lúc Chúa đi một mình như
thế?”. Đức Giêsu liền âu yếm trả lời anh rằng: “Hỡi con, trong những lúc con bị
lo âu phiền não, con không thể tự bước đi được. Đó là lúc Thầy phải bồng ẵm con
trên đôi tay của Thầy đó !”.
3.THẢO LUẬN : Một tín hữu gặp gian nan thử thách lại chỉ biết xin khấn, mà không
cố gắng phấn đấu làm hết sức để vượt qua, thì có đức tin mạnh không ? Đó có phải
là thái độ tin thác vào lòng Chúa thương xót của Chúa không ? Tại sao ?
4. SUY NIỆM :
1) Tầm quan trọng của Đức Tin để được ơn Chúa chữa lành:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại hai phép lạ nói lên tầm quan trọng của Đức
tin nếu chúng ta muốn được ơn Chúa cứu độ:
- Phép lạ thứ nhất là người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm. Nhờ có
đức tin mạnh vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su, nên cuối cùng bà đã
được Người chữa cho lành bệnh loạn huyết.
- Phép lạ thứ hai là một bé gái mới chết đang nằm trên giường. Đức Giêsu đã được
cha đứa bé là ông trưởng hội đường Gia-ia mời đến nhà để cứu chữa cho đứa con
gái của ông sắp bị chết. Dù đứa bé đã chết, nhưng nhờ vững tin vào lời Đức
Giê-su: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Ông trưởng hội đường đã không nản lòng
bỏ cuộc và tiếp tục đưa Người đến nhà. Cuối cùng nhờ vững tin vào tình thương và
quyền năng của Đức Giê-su mà đứa bé gái con ông đã được Người truyền cho sống
lại: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !” (Mc
5,41).
Trong cả hai phép lạ này, đức tin của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và đức tin
của viên trưởng hội đường Gia-ia là điều tối cần để nhận được ơn cứu độ của Đức
Giê-su.
2) Đức tin của người phụ nữ bị loạn huyết:
Loạn huyết là một chứng bệnh nhơ uế. Người Do thái không những coi đó là bệnh
nhơ uế về mặt thể lý mà còn coi bệnh này là một thứ gây ô uế về phạm vi luân lý
nữa. Cho nên Luật Mô-sê cấm những kẻ mắc bệnh này đụng chạm tới người khác. Vì
bệnh nhân mắc bệnh này chạm tới ai thì người ấy liền trở nên ô uế. Người phụ nữ
bị bệnh loạn huyết trong Tin Mừng hôm nay không dám kêu xin Đức Giêsu chữa bệnh
cho mình, vì bà sợ nếu để người khác biết bà mắc chứng bệnh nhơ uế này thì bà sẽ
lập tức bị xua đuổi khỏi đám đông. Bà định tâm sẽ giữ im lặng tiến gần đến bên
Chúa để chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là bà sẽ được khỏi bệnh. Quả thật, bà
đã được Chúa chữa cho khỏi bệnh. Nhưng Người muốn bà phải can đảm tuyên xưng đức
tin để làm chứng cho Người. Bấy giờ Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi:
“Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như
thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ
nữ làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết điều gì đã xảy đến cho mình. Bà
đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người liền nói với
bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi
hẳn bệnh” (Mc 5,30-34).
3) Đức tin của ông Gia-ia:
Ông là trưởng của một hội đường Do thái. Ông tin vào quyền năng và tình thương
của Đức Giê-su nên khi có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết, ông đã đến kêu xin
Đức Giê-su mau đến nhà chữa bệnh cho con ông. Trong lúc cùng đi với Đức Giê-su
về nhà, thì ông Gia-ia đã nghe tin con gái ông đã chết! Nhưng Gia-ia đã không
nản lòng bỏ cuộc. Ông đã được nghe lời Đức Giêsu động viên: "Đừng sợ, cứ tin".
Ông đã tin vào lời Chúa, và cuối cùng con gái ông tuy đã chết, nhưng đã được
trỗi dậy sau lời truyền phán của Đức Giê-su: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi
dậy đi !” (Mc 5,41). Chính nhờ ông Gia-ia biết vững tin vào vào quyền năng và
tình thương của Đức Giê-su, mà đứa con gái của ông đã nhận được ơn Chúa cứu độ.
4) Sống đức tin trong cuộc sống hôm nay:
- “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!”
(Mt 8,25):
Đức tin là một nhân đức quan trọng nhất giúp chúng ta đặt trọn niềm tín thác cậy
trông vào tình thương quan phòng và quyền năng vô biên của Chúa Giê-su. Mỗi khi
gặp những điều khó khăn trái ý, hay khi đối diện với những vấn đề vượt quá sức
tự nhiên của mình. Như các môn đệ Chúa xưa, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu Chúa
đang ngủ yên trong tâm hồn chúng ta. Hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa. Xin
cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8,25). Chúa có thể cũng sẽ quở trách
đức tin yếu kém của chúng ta: “Sao nhát thế ? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng
tin ?” (Mc 4,40). Nhưng đồng thời Người sẽ cũng sẽ thương ra tay thực hiện những
điều lạ lùng để cứu thoát chúng ta. “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không
thể làm được” (Lc 1,37).
- “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36):
Có nhiều người khi gặp phải những tình huống khó khăn mà cầu xin Chúa không được
như ý nên thường ngã lòng cậy trông, không còn cầu xin gì nữa. Khi gặp phải tình
huống ấy, chúng ta hãy nghe lời Đức Giê-su trấn an ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ
cần tin thôi”. Nếu điều chúng ta xin thực sự hữu ích cho phần rỗi đời đời của
chúng ta, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn theo ý chúng ta xin, như lời Chúa Giê-su
đã nói về tình thương của Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn
biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên
trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt
7,11).
- “Đừng theo ý con một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39):
Khi tin vào Đức Giê-su, là chúng ta hãy noi gương Người để bỏ cái tôi ích kỷ tự
mãn của mình, để đi con đường hẹp, chấp nhận vác tập giá mình hằng ngày mà theo
chân Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, đừng cầu theo ý riêng mình, nhưng hãy cầu
xin theo thánh ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su: “Đừng theo ý con, một xin vâng
ý Cha”. Chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện theo kinh Lạy Cha. Hãy cầu xin cho ta
nên khí cụ bình an của Chúa như lời Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Lạy
Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…”.
- Phải sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa:
Trong các phép lạ của Chúa, chúng ta thấy luôn có sự cộng tác của con người.
Chẳng hạn: Trong tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta đã
"múc nước đổ đầy các chum" (Ga 2,7); Trong phép lạ về nhân bánh ra nhiều, Chúa
chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi có “5 chiếc bánh và 2 con cá" (Mc 6,35-43); Khi
chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn chính anh mù phải đi
rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40); Trong cuộc sống đời thường, Chúa
luôn muốn cho chúng ta sử dụng hết các khả năng của chúng ta, và Chúa chỉ can
thiệp khi cần mà thôi như câu ngạn ngữ: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, con hơn ngồi
đó mà nguyền rủa bóng tối”.
- Tất cả đều là hồng ân:
Sau khi kết thúc công việc, chúng ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và nếu
chẳng may bị thất bại, chúng ta cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin thì
: “Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành” và “Mọi sự đều là hồng ân”. Tất cả những
gì xảy đến cho ta đều là hồng ân của Chúa ban và đều sinh ích cho phần rỗi đời
đời của ta.
5.LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Tai
con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay và môi miệng con đã nhiều lần
được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn chưa được khỏi các đam mê tội
lỗi. Xin hãy gia tăng lòng tin cậy mến và sự quyết tâm xa lánh dịp tội cho con,
nhờ đó con hy vọng sẽ được ơn Chúa chữa lành như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm
nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM