HIỆP SỐNG TIN MỪNG CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG B
Is 40,1-5.9-11 ; 2 Pr 3,8-14 ; Mc 1,1-8
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mc 1,1-8
(c 1) Khởi đầu Tin mừng Đức Giêsu Ki-tô, Con Thiên Chúa. (c 2-3) Chiếu
theo lời đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Này Ta sai sứ giả của Ta
đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong
hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để
Người đi”. (c 4-5) Ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao
giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha
tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với
ông. Họ thú tội, và ông làm phép Rửa cho họ trong sông Gio-đan. (c 6)
Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và
mật ong rừng. (c 7-8) Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi
đang đến sau. Tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã
làm phép Rửa cho anh em nhờ nước. Còn Người, Người sẽ làm phép Rửa
cho anh em trong Thánh Thần.
2. Ý CHÍNH:
Sách Tin Mừng thứ hai bắt đầu với lời rao giảng của ông Gio-an Tẩy Giả.
Mác-cô giới thiệu Gio-an là vị tiền sứ của Đức Giê-su, có sứ mạng đi
trước để dọn đường cho Người (c 2-3). Gio-an thực hiện sứ mạng bằng
việcrao giảng để kêu gọi mọi người phải ăn năn sám hối và sẽ được thanh tẩy
nhờ phép rửa dìm mình trong nước sông Gio-đan. Cuối cùng chính Gio-an đã
giới thiệu về con người và sứ mạng của Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Mc
1,7-8).
3. CHÚ THÍCH:
- (c 1)
Tin Mừng:
Một từ ngữ Hy Lạp
(Euaggelion)
có nghĩa là
Tin vui, Tin
mừng.
Ta có thể hiểu Tin mừng Đức Giê-su Ki-tô theo hai nghĩa: Một là chính
Tin mừng đã được Đức Giê-su rao giảng. Hai là Tin mừng về Đức Giê-su
được Hội Thánh công bố. Như vậy, Đức Giê-su vừa là người rao giảng Tin
mừng, lại vừa là đối tượng của Tin mừng được rao giảng (x. Mc
8,38;10,29).
+
Giê-su:
có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ (x. Mt 1,21).
Đức Giê-su là một nhân vật lịch sử có thật, quê tại làng Na-gia-rét
miền Ga-li-lê (x. Mc 1,9), làm nghề thợ mộc, là con của bà Ma-ri-a, là
anh em bà con với các ông Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon (x. Mc 6,3). +
Ki-tô:
Ki-tô hay Mê-si-a
có nghĩa là Đấng được xức dầu hay được thánh hiến. Trong Cựu Ước có
ba chức vị được xức dầu tấn phong là: vua, tư tế và ngôn sứ. Chẳng
hạn: Đa-vít được ngôn sứ Sa-mu-en xức dầu phong làm vua (x. 1 Sm 16,13),
A-a-ron được Mô-sê xức dầu phong làm tư tế (x. Lv 8,12), Ê-li-sê được Ê-li-a
xức dầu phong làm ngôn sứ (x. 1 V 19,16). Qua câu này, Mác-cô quả quyết
Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai hay Đấng Mê-si-a cũng gọi là Ki-tô
mà người Do-thái đang mong đợi (x. Cv 10,38; Lc 4,18-19).
+
Con Thiên Chúa:
Tước hiệu Con Thiên Chúa tương đương với tước hiệu Con Vua Đa-vít (x. Mc
14,61-62a). Với sự xuất hiện của Đức Giê-su, thời đại hoàng kim của
nhân loại đã khởi đầu: Từ đây nhân loại sẽ được giải thoát khỏi ách
nặng nề của lề luật, khỏi làm nô lệ cho ma quỉ, nhưng được
trở nên con cái của Thiên Chúa
(x. Mt 5,9), được
gọi Chúa là “Áp-ba, Ba ơi !
” (x. Gl 4,6), được nên
nghĩ̃a tử
của Thiên Chúa nhờ tin yêu kết hiệp với Đấng Ki-tô (x. Gl 3,26-28).
-
(c 2-3)
Lời đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a:
Đây là một đoạn Lời Chúa trích ra từ sách ngôn sứ I-sai-a (40,3). Qua
câu này, Mác-cô muốn ám chỉ Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Người được
Thiên Chúa trao cho sứ mạng làm Mô-sê Mới của thời Tân Ước để thực
hiện một cuộc Xuất Hành Mới. Người sẽ dẫn đưa dân Ít-ra-en Mới là
Hội Thánh vượt qua sa mạc trần gian để về miền Đất Hứa là Nước Trời
đời sau.
+
Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con:
Vị sứ giả đây chính là Gio-an Tẩy giả. Ông đã được trao sứ mạng tiền
hô, nghĩa là công việc của người đi trước hô to lên cho mọi người biết và dẹp
đường để đón Đấng Thiên Sai sắp đến.
-
(c 4-5)
Phép rửa của Gio-an Tẩy giả:
Gio-an làm phép rửa để giúp người ta tỏ lòng sám hối tội lỗi và cầu
xin Chúa tha tội. Đồng thời, cũng để chuẩn bị giúp họ đón nhận ơn
cứu độ của Đấng Thiên Sai. Nghi thức phép rửa của Gio-an gồm việc khiêm
nhường xưng tội trước khi được Gio-an dìm mình dưới nước sông Gio-đan.
-
(c 7-8)
Bí tích Rửa tội của Đức Giê-su:
Sau khi được Gio-an dìm mình dưới nước sông Gio-đan, Đức Giê-su đã được Chúa
Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống trên mình. Qua cuộc thần hiện này,
Người đã thiết lập bí tích rửa tội để ban cho những ai có lòng sám
hối và có đức tin sẽ được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa (x. Mt 28,19).
Trong nghi lễ rửa tội, sau khi tuyên bố từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng
đức tin, người chịu phép sẽ được vụ chủ sự dìm mình trong giếng nước
hay được dội nước trên đầu, và còn được xức dầu thánh để nên dưỡng tử
của Thiên Chúa.
4. CÂU HỎI:
1.- Tin mừng Đức Giê-su Ki-tô có ý nghĩa thế nào ? 2.- Ý nghĩa của hai từ
Giê-su và Ki-tô khác nhau ra sao? 3.- Vị ngôn sứ nói tiên tri về vai trò
sứ giả hay tiền sứ của Gio-an Tẩy giả về Đấng Thiên Sai sắp đến là ai?
4.- Phân biệt giữa phép rửa do Gio-an thực hiện với phép rửa tội do
Đức Giê-su thiết lập giống và khác nhau như thế nào? 5.- Người giáo
dân có được quyền ban phép rửa tội cho một người lương lớn tuổi muốn theo
đạo, hay cho một trẻ mới sinh sắp chết hay không và cách thức ban thế nào?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức
Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c 3).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sám hối - điều kiện để được tha tội:
Một hôm, vị Phó Vương xứ Naples là công tước d’ Osone khi mới lên nhậm chức, ông
quyết định sẽ ân xá cho các tù nhân có biểu hiện sám hối thực sự. Ông đã đích
thân đến thăm nhà ngục và xét hỏi từng người để sẽ ban lệnh ân xá cho họ. Khi
được hỏi, hầu hết tù nhân đều kêu mình bị oan. Riêng chỉ có một người là sẵn
sàng nhận tội, và còn nói lẽ ra mình phải chịu mức án nặng hơn mới đáng với tội
của mình. Thấy phạm nhân thành tâm nhận lỗi, vị công tước liền nói với anh như
sau: ”Anh đã nhận mình là tội nhân đang khi nhiều người khác lại chối tội. Như
vậy nhà tù này không hợp với anh, nên anh được ân xá và sẽ lập tức được trở về
nhà”.
Một người phàm như công tước xứ Naples mà còn có lòng thương xót và sẵn sàng tha
thứ cho một tù nhân có lòng khiêm hạ sám hối, phương chi Thiên Chúa là Cha giàu
lòng từ bi thương xót lại không tha thứ lỗi lầm cho những hối nhân sám hối và
quyết tâm cải tà quy chính hay sao ? Bởi vì nếu bản tính của loài người là kẻ
yếu hèn và dễ phạm tội, thì Thiên Chúa lại là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và
giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Ngài không cứ
tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (TV 103,8-10).
2) Mỗi người cần phải làm gì ?
Một vị thiền sư Ấn giáo vào tuổi cao niên đã phát biểu cảm nghĩ về cuộc đời của
ông từ nhỏ tới lớn đã từng trải qua như sau :
- Lúc còn trẻ, tôi là một thiếu niên có những suy nghĩ táo bạo và đầy quyết tâm.
Khi nhìn thấy thế giới chung quanh đầy tội lỗi gian ác, tôi đã mạnh dạn cầu
nguyện với Thượng Đế như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con có đủ khôn ngoan để
biến đổi thế giới tội lỗi xấu xa này nên thánh thiện tốt đẹp hơn”.
- Rồi khi đến tuổi trưởng thành, tôi đã nghiệm ra rằng: Tôi đã trải qua nửa đời
người rồi mà vẫn chưa biến đổi được ai nên tốt hơn. Lúc đó, tôi đã thay đổi lời
cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin cho con đủ sức biến đổi mọi người trong gia
đình và bè bạn của con nên tốt hơn. Và như vậy đã đủ làm cho con thỏa mãn”.
- Nhưng giờ đây đến tuổi xế chiều, “răng nong tóc bạc”, khi ngày tháng đời tôi
sắp đến lúc chấm hết, tôi mới nhận ra rằng: tôi đã thật khờ dại biết bao! Tôi
đã chẳng làm được điều tốt nào cho ai cả. Bây giờ tôi chỉ còn biết khiêm tốn cầu
nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin giúp con đủ nghị lực để biến đổi chính bản thân
con… Giả như tôi đã sớm hiểu biết và cầu nguyện quyết tâm như vậy ngay từ lúc
còn trẻ, thì tôi đã không phí thời gian cách vô ích rồi”.
3) Gương sáng hiệu quả hơn lời giảng:
Vào thế kỷ 12, nhiều tệ đoan đã xảy ra trong nội bộ Hội thánh, nhiều bè phái đã
nổi lên ở khắp nơi phê phán chỉ trích nếp sống xa hoa của nhiều chủ chăn trong
Hội thánh. Lúc đó hai thánh Phan-xi-cô thành Át-si-si và thánh Đa-minh đã được
Thiên Chúa sai đến với sứ mạng thức tỉnh và canh tân Hội thánh. Các ngài đã
không lớn tiếng phê phán bất cứ ai, nhưng luôn ý thức người phải ăn năn sám hối
trước hết là chính bản thân các ngài. Các ngài không khoe khoang thành tích đã
làm được, không tham lam của cải vật chất và địa vị quyền hành, không sống giả
hình đạo đức… Tuy cả hai vị đều thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng các ngài đã từ bỏ
tất cả địa vị danh vọng tiền của vật chất để chọn lối sống khó nghèo, hiền hòa
và khiêm tốn phục vụ người nghèo của Chúa Giê-su trong Tin Mừng.... Thánh
Đa-minh đã lập dòng “Anh em thuyết giáo” (OP), còn thánh Phan-xi-cô lập dòng
“Anh em hèn mọn” (OFM). Các tu sĩ của hai dòng khổ tu này có nếp sống đơn giản:
ăn mặc quần áo vải thô, ngày ngày đi chân đất qua các xóm làng khất thực và đến
tối lo dạy giáo lý cho người lớn và trẻ em tại các nhà thờ lâu ngày bỏ hoang, tổ
chức những tuần tĩnh tâm cho các tín hữu. Chẳng mấy chốc tiếng lành đồn xa, cuộc
sống nghèo khó và đạo đức của các ngài đã được nhiều vị chủ chăn và các tín hữu
nhận biết nể phục. Nhiều tội nhân và người theo lạc giáo đã được ơn Chúa hồi tâm
sám hối trở về với Hội thánh Công giáo. Nhờ sự quyết tâm canh tân vừa bằng lời
giảng kèm theo gương sáng của các vị chủ chăn, các tu sĩ nam nữ và các tín hữu
mà con thuyền Hội Thánh đã vượt qua nhiều cơn phong ba bão táp có nguy cơ chìm
đắm.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Vọng hôm nay thuật lại việc Gioan Tầy Giả đã thi hành
sứ mạng tiền hô đi trước dọn đường cho mọi người đón nhận Đấng Thiên Sai. Noi
gương ngôn sứ I-sai-a xưa, Gio-an đã đến sông Gióc-đan rao giảng rằng: “Hãy
dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”
(Mc 1,5). Ông cũng làm phép rửa cho những ai thành tâm sám hối để chuẩn bị đón
Đấng Thiên Sai.
1) SỨ MẠNG DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA:
Thiên Chúa đã gọi Gio-an là con tư tế Gia-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét làm ngôn sứ
và trao cho sứ mạng đi trước dọn đường cho người ta đón Ðấng Thiên Sai sắp đến.
Gio-an đã thi hành sứ mạng bằng một cuộc sống khổ hạnh: mặc áo lông lạc đả, ăn
châu chấu và mật ong rừng. Ông đã từ bỏ mọi tiện nghi vật chất để nêu gương sống
siêu thoát hầu thi hành sứ mạng tiền hô của Đấng Cứu Thế. Gio-an rao giảng rằng:
“Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau. Tôi không đáng cúi xuống cởi
quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước. Còn Người,
Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,7-8). Qua đó,
Gio-an xác nhận rõ vai trò sứ giả của ông. Ông chỉ là người đi trước dọn đường
cho Đấng Thiên Sai. Ông đã nói với mọi người rằng: Tôi không là Đấng Thiên Sai,
nhưng chỉ là tiếng kêu trong hoang địa để mọi người dọn đường đón Người. Người
cao trọng hơn tôi và là Đấng dân chúng đang trông đợi. Người đi trước dọn đường
chắc chắn không quan trọng bằng người đến sau như Gio-an đã xác nhận: “Đấng đến
sau tôi thì cao trọng hơn tôi!” Ông đã thực hiện đúng như lời tuyên sấm của
Ma-la-ki-a và I-sai-a như sau: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt
Ta” (Ml 3,1) và “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của
Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Is 40,3).
2) DỌN ĐƯỜNG BẰNG LỜI NÓI VÀ VIỆC LÀM:
a) Sống sám hối – Để sửa đường cho thẳng đón Chúa đến (Lc 3,4):
Gioan Tẩy Giả đã thực hiện lời ngôn sứ I-sai-a : “Có tiếng người hô trong hoang
địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi
thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải
uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,4-6).
b) Sống đơn giản – Để có giờ lo công việc nhà Chúa và phục vụ anh em:
Nếp sống đơn giản làm cho chúng ta tự do và thoải mái, vì nếu sống cầu kỳ phức
tạp sẽ làm chúng ta bận bịu và mất giờ về quần áo mặc hay về nơi ăn chốn ở hay
về những tiện nghi vật dụng mình xài như xe cộ, tivi, tủ lạnh...
b) Sống khiêm tốn – Để Đức Ki-tô được lớn lên trong anh em:
Cuộc sống của người tín hữu chúng ta dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân đều có
chung mục đích là “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn” như
lời Chúa Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện trong kinh Lạy Cha: “Chúng con nguyện
danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Muốn thực hiện được điều này đòi chúng ta phải sống theo gương Gio-an là khiêm
tốn qui mọi vinh quang về cho Đức Giê-su như Gioan đã trả lời cho các môn đệ của
ông: “Chính anh em làm chứng cho Thầy là thầy đã nói: Tôi đây không phải là Đấng
Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Người phải nổi bật lên, còn thầy
phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30).
3) CỤ THỂ CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ ?
Sau khi chứng kiến gương sáng và nghe lời Gio-an giảng, đám đông đã hỏi ông rằng:
“Chúng tôi phải làm gì đây ?”. Gio-an đã trả lời các việc cụ thể mỗi người phải
làm, tóm lại là phải hồi tâm và ăn ở công bình, quảng đại chia sẻ cơm áo cho
người nghèo đói bất hạnh như sau:
+ Hãy vào nơi thanh vắng:
Cần tạo một bầu khí thinh lặng nội tâm bằng việc mỗi ngày dành ra
ít phút khi vừa thức dậy để dâng ngày mới cho Chúa, xét mình trước
lúc nghỉ đêm, siêng năng dự lễ và tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm
Mùa Vọng được tổ chức tại nhà thờ...
+ Hãy làm cho Chúa được lớn lên:
Trước khi làm một công việc gì, mỗi người hãy tự hỏi: Tôi làm việc này để làm
vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn hay để được nhiều người biết tiếng khen
ngợi ?
+ Hãy sống đơn giản:
Tránh may thêm quần áo giày dép mới khi không thực sự cần; Bớt tổ chức
các bữa liên hoan không cần thiết; Tránh đến các quán bia ôm hay cà-phê
đèn mờ: Tránh lên mạng chơi game online…để
tập sống đơn giản như ông Gio-an và Đức Giê-su như người đã nói: "Con chồn có
hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Một
người có địa vị cao chắc sẽ gây được nhiều thiện cảm nếu có lối sống đơn giản
trong y phục, xe cộ, trang hoàng nhà cửa… kèm theo phong cách ứng xử khiêm tốn
vui vẻ chân thành với hết những ai có dịp tiếp xúc với mình.
+ Hãy sống công minh chính trực:
Những ai đang hành nghề buôn bán cần biết buôn ngay bán thật. Mỗi người chúng ta
cần nói năng lễ độ trung thực và khôn ngoan tế nhị. Tránh lối thích ‘nổ” để cho
mình trổi vượt người khác.
+ Hãy quảng đại chia sẻ niềm vui và tình thương:
Gửi thiệp Noel cho bạn bè và người thân thể hiện sự quan tâm và đi bước
trước đến với tha nhân; Cùng ông già Noel đi thăm viếng phát quà các trẻ
em bụi đời đường phố hay các trẻ mồ côi, các người mù lòa khuyết tật, các
cụ già liệt giường neo đơn tại tư gia hay nhà nuôi người già...
4. THẢO LUẬN:
1) Đến ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ tái lâm để biến đổi trần gian nên
“Trời Mới Đất Mới”. Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta phải cộng tác với
Chúa để biến gia đình của mình ngày một an vui hạnh phúc hơn, khu xóm ta
đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, đất nước của ta ngày một văn
minh, an bình và thịnh vượng hơn?
2) Ta phải dọn lòng đón chúa đến trong những ngày mừng lễ Giáng Sinh
bằng những việc gì?
5. NGUYỆN CẦU:
-
LẠY CHÚA CHA,
Đấng giàu lòng từ bi nhân hậu. Xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn
tiếp đón Đấng Ki-tô sẽ đến: Đến riêng trong giờ chết của mỗi người
chúng con và đến chung trong ngày tận thế của toàn thể nhân loại. Xin
thanh tẩy lương tâm chúng con sạch mọi điều xấu xa gian ác. Xin loại ra
khỏi con người chúng con thái độ ích kỷ tự mãn, hận thù ganh ghét và
mọi thứ đam mê bất chính khác, để chúng con xứng đáng nhận được ơn
cứu độ của Chúa Giê-su.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những ngày Mùa Vọng này, xin cho chúng con
biết siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, để qua đó, chúng con sẽ
“loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho
tới khi Chúa lại đến”. Chúa sẽ lại đến trong đêm Giáng Sinh, trong giờ
chết của mỗi người chúng con và trong ngày tận thế chung của toàn nhân
loại. Xin cho chúng con biết dọn lòng đón Chúa đến bằng việc thành tâm sám hối
các thói hư, mỗi ngày làm ít nhất một việc bác ái kèm theo một lời nguyện tắt.
Nhờ đó chúng con mới chu toàn được sứ mạng đem Chúa là niềm vui, bình an. tình
thương và hạnh phúc đến cho mọi người.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM