QUẢ THẬT, TA BẢO VỚI ANH: HÔM NAY ANH SẼ ĐƯỢC Ở VỚI TA TRONG THIÊN ĐÀNG (LC 23,43).
Lời thứ hai này của Chúa Giê-su nằm trong mạch văn nói về người gian phi sám hối
(Lc 23, 39-43). Trước đó, Lu-ca diễn tả về hai nhóm người chế giễu và nhục mạ
Chúa Giê-su (Lc 23, 35-38). Nhóm thứ nhất là những người thủ lãnh. Họ đã chế
nhạo người:
“Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của
Thiên Chúa, là người được tuyển chọn”
(Lc 23, 35). Cũng thuộc về nhóm những người thủ lãnh, Mát-thêu nêu rõ ràng hơn,
đó là các thượng tế, kinh sư và các kỳ mục. Họ chế nhạo Chúa như sau:
“Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống
khỏi Thánh Giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! Hắn cậy vào Thiên Chúa,
thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: ‘Ta
là Con Thiên Chúa!’”
(Mt 27, 42-43).
Hùa theo các thủ lãnh, các lính tráng cũng nhục mạ Chúa, nhưng với cách thức
khác.
“Chúng lại gần đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì
cứu lấy mình đi!”. Phía dưới đầu Người, có bản án viết: ‘Đây là vua người
Do-thái’”
(Lc 23, 36-38). Ngoài sự sỉ nhục của hai nhóm người này, Chúa Giê-su còn đón
nhận một lời sỉ nhục, một lời thách thức của một người tử tội đang cùng bị đóng
đinh, mà truyền thống thường nói là người trộm bên trái:
“Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với”
(Lc 23, 39).
ĐHY Fulton đã có một cái nhìn rất sống động và mạnh mẽ về anh trộm bên trái này.
Trước hết, ngài đã so sánh hai anh trộm bị đóng đinh chung với Chúa đều có tội,
nhưng hai người lại nhìn sự đau khổ khác nhau: “Một thi sĩ đã viết: ‘Hai người
ngồi tù cùng nhìn qua cửa sổ, một người nhìn thấy trăng sao, kẻ khác nhìn thấy
bùn nhơ’. Cũng thế, trên thế gian, có những linh hồn nhìn bông hoa hồng và nói:
‘thật là khổ, trên cành hoa đầy gai’. Nhưng linh hồn khác: ‘thật là phấn khởi
trên cành gai có những bông hoa’. Hai thái độ ấy biểu lộ sự khác nhau giữa kẻ
trộm lành và dữ chịu đóng đanh cùng Chúa Giê-su trên ngọn đồi Calvario. Người
trộm bên phải đại diện cho những ai nhìn đau đớn có ý nghĩa. Người bên trái
không nhận ra có ý nghĩa gì, tức đau khổ không được thánh hóa.
Trước hết, chúng ta suy gẫm người bên trái: Hắn ta chịu đớn đau không nhiều hơn
người bên phải, nhưng khởi sự và kết thúc cực hình của mình bằng lời nguyền rủa.
Chẳng có giây phút nào hắn liên kết đau khổ của mình với Chúa Giê-su. Lời cầu
xin tha thứ của Chúa không hiệu quả hơn một bóng chim bay…Bởi lẽ hắn không tiêu
hóa được đớn đau và làm cho nó trở nên lương thực của linh hồn. Đó là nguyên
nhân khiến hắn nguyền rủa Chúa, Đấng đáng lẽ là mục tử chăn dắt hắn vào thiên
đàng bình an. Thế giới ngày nay đầy rẫy những con người như vậy. Đau khổ, cực
hình chẳng có ý nghĩa nào cho họ. Không biết chi hết về ơn cứu rỗi của Chúa
Giê-su, nên họ không quan tâm làm cho đớn đau trở thành ích lợi…
Như vậy, bài học của người trộm bên tả Chúa Giê-su đã rõ ràng. Đau đớn tự nó
không làm cho người ta khá hơn. Ngược lại có cơ hội làm người ta xấu hơn. Chẳng
linh hồn nào trở nên tốt hơn nguyên chỉ vì hắn bị đau tai! Đau khổ không được
thánh hóa chẳng làm cho con người tiến bộ, trái lại, làm cho hắn thoái hóa. Kẻ
trộm bên tả Chúa không tốt hơn khi chịu đóng đinh. Nó làm cho hắn khô héo, cháy
rụi và linh hồn mờ tối. Từ chối liên hệ đau khổ với bất cứ mục tiêu nào, đương
sự cuối cùng chỉ nghĩ đến mình và đến những ai sẽ mang xác mình khỏi thập giá.
Đó là điều những người mất đức tin vào Thiên Chúa thường làm. Đối với họ Chúa
Giê-su trên thập giá chỉ là một biến cố trong lịch sử đế quốc Rôma. Chúa không
phải là sứ giả của hy vọng, bằng chứng của tình yêu. Họ có được một dụng cụ quý
giá trong tay mình, nhưng đã 5 phút trôi qua mà không thấy sự hữu ích của nó. Họ
sống nhưng không hề tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống. Họ chẳng có mục tiêu để sống.
Những đau khổ chỉ làm họ cay đắng, đầu độc họ, và cuối cùng cơ may to lớn của
cuộc sống trượt mất khỏi bàn tay. Cánh cửa cứu rỗi khép lại sau lưng và giống
như người trộm bên trái, họ tiến vào đêm tối không được chúc phúc”.
Như thế, với ĐHY Fulton, người trộm bên trái đã không ý thức được trách nhiệm
cho phần rỗi linh hồn của bản thân, anh ta chỉ nhìn mình và cái lợi trần thế cho
mình, nghĩa là anh sợ hãi đau đớn, sợ hãi cái chết trước mắt, cuộc đời anh ta
vẫn bám chặt vào trần thế này, đến nỗi đôi mắt thân xác và đôi mắt tâm hồn của
anh mờ tối với đời sống mai hậu, mờ tối với Đấng Cứu Độ. Phần Chúa Giê-su, thì
Ngài vẫn giữ vững tinh thần yêu thương và nhân hậu của Ngài, ngay trong hoàn
cảnh Ngài bị sỉ nhục và chế diễu. Pagila chia sẻ như sau: “Chúa tha thứ và đón
nhận người trộm lành bên phải, nhưng Chúa không bỏ rơi anh trộm ở bên trái và
Ngài cũng không kết an anh ta. Từ ngữ ‘nghi ngờ’ một ai đó, ‘nghi ngờ’ nhóm
người nào đó, hay ngay cả ‘nghi ngờ’ đối với một người tội lỗi nhất, không có
chỗ trong ngôn từ của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su đến để gieo rắc mầm hy vọng vào
trong trái tim của những người khổ đau, những người bị bỏ rơi, những người là
nạn nhân của các cuộc chiến tranh, và những người đau khổ đến tận cùng bởi những
thảm kịch không thể hiểu được. Đối với Chúa, không có bất cứ ai là không xứng
đáng với Tin Mừng, với ơn cứu rỗi và với Nước Thiên Đàng. Ngược lại, tất cả
chúng ta được tạo dựng nên để hưởng nước Thiên Đàng. Vì thế, Thiên Chúa không
bao giờ là người kết án. Trong mọi sự chỉ có chúng ta tự mình bộc lộ ra, và tự
mình tránh xa Thiên Chúa, tự mình từ chối lời mời của tình yêu, lời mời trở nên
bạn hữu của Thiên Chúa, và như thế chúng ta tự kết án mình. Từ các nguyên nhân
rất rõ rệt này, chúng ta tự lãnh trách nhiệm thật lớn lao…Chúng ta phải có ý
thức bộc lộ ra trách nhiệm lớn, nếu chúng ta muốn xếp đặt đời mình đúng thực sự
theo tinh thần nhân bản, như chính Chúa mong ước. Thầy Do-thái giáo sống cùng
thời với Chúa Giê-su là Hillel đã nói rằng: ‘Nếu thế giới này bất nhân, thì phần
bạn – bạn hãy cố gắng là một con người đúng nghĩa’.”
Thật vậy, là một con người đúng nghĩa như anh trộm bên phải sám hối ăn năn, chứ
không phải như anh trộm bên trái, người đã vô trách nhiệm và đui mù nói ra những
lời chế nhạo và sỉ nhục Chúa. Những lời sỉ nhục này của anh ta cũng như của các
nhóm người khác còn mang sự thách thức Chúa, và hơn nữa trong chiều sâu thì sự
chế nhạo, sỉ nhục và thách thức này còn tiềm ẩn một câu hỏi dày vò chính họ. Đó
là hai từ “tại sao”. Tại sao Chúa không chịu xuống khỏi thập giá? Tại sao Chúa
lại không muốn chứng tỏ quyền lực của Chúa, nếu Chúa thực là Chúa?
Những người sỉ nhục không hiểu được tại sao Chúa Giê-su, Đấng đã từng làm nhiều
phép lạ để cứu biết bao kẻ bất hạnh, giờ đây lại không cứu nổi mình. Nếu Ngài
thực là Con Thiên Chúa, tại sao Ngài lại sẵn sàng chịu sỉ nhục như thế? Và tại
sao Thiên Chúa không cứu Ngài? Ngoài nhóm người sỉ nhục Chúa, cũng có đám đông
dân chúng đứng đó thương tiếc Chúa, đau cho Chúa. Có lẽ họ cũng hỏi tại sao Chúa
lại đón nhận cái chết nhục nhã như thế. Trước những lời chế nhạo và sỉ nhục của
nhiều nhóm người khác nhau, trước hai từ “tại sao” của nhiều hạng người gián
tiếp hay trực tiếp đã đặt ra, Chúa Giê-su phản ứng như thế nào? Chúa có xuống
khỏi Thánh Giá theo lời chế nhạo và sỉ nhục của họ không? Chúa có trả lời họ
điều gì không?
Theo Đức Cố Hồng Y Martini, thì Chúa Giê-su có thể sẽ trả lời hai chữ
tại sao
như sau: “Con hãy suy nghĩ xem coi người ta coi Thầy là ai? Khuôn mặt Thiên Chúa
mà họ vẽ lên mang dáng vẻ nào? Một vì Thiên Chúa như là một anh hùng thời đại,
với chiến thắng, với vinh quang, với quyền lực chính trị, và chẳng sợ chi tới
bạo lực, miễn là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ mà thôi? Còn với Thầy, thì
khuôn mặt Thiên Chúa chỉ còn là một Thiên Chúa đón nhận sự yếu đuối của mình,
đón nhận những đau đớn người ta chất lên vai mình. Một Thiên Chúa can đảm tự
‘đặt mình’ vào sự tự do của con người, để họ muốn làm gì Ngài thì làm. Như vậy,
làm sao Thầy có thể xuống khỏi Thánh Giá được. Xuống khỏi Thánh Giá không phải
là chiến thắng đâu! Thầy đã được Cha trao phó cho sứ mạng đem lại Tin Mừng và ơn
cứu độ cho muôn người. Hôm nay, Thầy cần thi hành sứ mạng này cách trọn vẹn. Vì
thế, dù con người có nghĩ gì, dù con người có thất vọng về Thầy, về Thiên Chúa,
thì Thầy cũng không rời khỏi Thánh Giá. Hơn nữa, lòng nhân từ và tình yêu của
Thiên Chúa vô biên. Vì vậy, Thầy cũng không thể tự nói với mình rằng: ‘Ta đã đến
để cứu độ, đã thử biết bao nhiêu phương cách để hoán cải và chuộc lại con người.
Nhưng chúng rất cứng đầu. Bây giờ đã đủ rồi. Cố gắng của Ta đã chấm dứt. Ta sẽ
làm cho chúng coi quyền lực của Ta lớn hơn tội lỗi của chúng, và sự chết không
thể rờ đến Ta’.”
Chúa Giê-su vẫn nằm đó trên Thánh Giá! “Chúa không xuống khỏi Thánh Giá, vì Ngài
là Con Thiên Chúa. Ngài đã đến thế gian cho điều đó, là bị đóng đinh vào Thánh
Giá cho chúng ta.
Hắn cứ xuống khỏi Thánh Giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền!
Ôi một lời yếu tin biết bao”. Trước lời thách thức yếu lòng tin đó, Chúa không
bị lay chuyển, Ngài chẳng nói năng chi, chẳng sợ hãi trước những lời chế diễu và
sỉ vả. Ngài không xuống khỏi Thánh Giá như nhiều người thách thức, và Ngài cũng
không đáp lời họ. Đó là một thái độ thật tuyệt vời của Chúa Giê-su. Không cần
hao công tốn sức với những lời sỉ nhục mang tính bất nhân và hiểm ác, nghĩa là
không để cho những lời đó có ảnh hưởng gì trên Ngài, ảnh hưởng trên sứ mạng mà
Ngài nhận được từ Cha trên trời. Sứ mạng của lòng nhân hậu giành cho những tâm
hồn biết ăn năn như người trộm lành.
Thờ lạy kính sợ Chúa và ăn năn thống hối – thái độ của người trộm lành.
Trở về lại với hình ảnh của hai người trộm cùnh bị đóng đinh với Chúa. Khi người
bên trái lên tiếng chế nhạo Chúa như thế, thì người bên phải mà truyền thống gọi
là
latro poenitens
– kẻ trộm ăn năn,
hay người Công Giáo Việt Nam thường gọi là
người trộm lành,
anh ta không hùa theo, mà ngược lại lên tiếng mắng người trộm ở bên trái kia:
“Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ!
Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu
có làm điều gì trái!”
(Lc 23, 40-41). Lời mắng của
người trộm lành
chứa đựng hai yếu tố.
Thứ nhất là sự nhắc nhớ và đòi hỏi người gian phi kia phải biết kính sợ Thiên
Chúa, như trong sách Châm Ngôn có nói:
“Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của tri thức. Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan và
lời nghiêm huấn”.
(Cn 1, 7). Trong Cựu Ước, việc kính sợ Thiên Chúa luôn được coi là sự khôn ngoan
những người tin. Kính sợ Chúa là khôn ngoan trọn vẹn, và sự trọn vẹn bắt
nguồn từ hoa trái của sự kính sợ Chúa. Như thế, kính sợ Chúa là vương
miện của sự khôn ngoan, qua đó người ta sẽ nhận được đầy tràn ơn bình an và
ơn cứu độ. Đó là điều mà anh trộm lành đã trải nghiệm. Trong sách Giảng Viên ở
lời cuối, tác giả đã nói rất rõ ràng:
“Lời kết luận cho tất cả mọi điều bạn đã nghe ở trên đây là: hãy kính sợ Thiên
Chúa và tuân giữ các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người,14 vì
Thiên Chúa sẽ đưa ra xét xử tất cả mọi hành vi, kể cả những điều tiềm ẩn, tốt
cũng như xấu”.
(Gv 12, 13-14).
Thánh Vịnh gia cũng nhắc nhớ tinh thần kính sợ Thiên Chúa:
“Kính sợ CHÚA đi, đoàn dân thánh hỡi,
vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi”
(Tv 34, 9).
“Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan.
Sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy.
Mãi đến thiên thu còn vang tiếng ngợi khen Người”.
(Tv 111,10).
“Hạnh phúc thay, người kính sợ CHÚA,
những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban”.
(Tv 112, 1).
Valles với kinh nghiệm của bản thân, đã chia sẻ rất thú vị về tinh thần của
người kính sợ Thiên Chúa, người công chính qua Thánh Vịnh 112 như sau: “Nỗ lực
vươn đến trọn lành không cần phải phức tạp. Sự thánh thiện là từ nội tâm, và sự
công chính có thể tìm được ngay tại nhà mình. Niềm vui tuân giữ luật Chúa và
lòng thương cảm trợ giúp người nghèo cũng không phải là chuyện xa xôi. Sự khôn
ngoan có vai trò riêng của nó trong đời sống thiêng liêng, và đức đơn sơ của một
tâm hồn chân thực sẽ tìm thấy những con đường vắn tắt dẫn đến sự thánh thiện.
Cái tâm biết đường lối để trở nên người tốt lành, công bình, liêm chính, và việc
sống theo đường lối ấy chính là lẽ khôn ngoan cơ bản của mọi tiến bộ thiêng
liêng. Đôi khi tôi có cảm tưởng chúng ta đã làm cho cuộc sống thiêng liêng trở
nên quá phức tạp. Khi nghĩ đến vô số sách vở đã từng đọc, nhiều khoá học đã từng
tham dự, nhiều hệ thống tôi đã từng thử nghiệm, nhiều cách sống đã từng áp dụng,
tôi không thể không cười ngu ngơ một mình, rồi tự hỏi mình có cần phải trải qua
nhiều thi cử như vậy để học biết cầu nguyện hay không. Và tôi đã tự trả lời: tất
cả những khoá học tôn giáo tự chúng rất bổ ích, nhưng chúng cũng dễ dàng biến
thành một rào cản khi tôi quỳ gối và muốn cầu nguyện. Để trở nên công chính
không khó khăn như vậy. Để gặp được Thiên Chúa trong cuộc sống, tôi chẳng cần
phải có quyển sách thiêng liêng mới nhất đang được bày bán trên thị trường. Cho
đến nay, tôi miệt mài tìm kiếm trong sách vở. Tôi muốn trở lại với việc yêu mến
Thiên Chúa và yêu thương anh chị em, trở lại với việc mở miệng và đọc lên những
câu kinh tôi đã nằm lòng từ khi còn thơ ấu, trở lại với việc kính sợ Thiên Chúa
và hân hoan tuân giữ các giới luật của Ngài, trở lại với việc sống nhân ái, đơn
sơ giữa một thế giới phức tạp, trở lại với việc trở nên con người được Thiên
Chúa mời gọi – một người công chính…Người công chính biết bàn tay Thiên Chúa chở
che họ ở đời này, và với lòng đơn sơ khiêm nhường, họ sống phó thác hạnh phúc
trong cõi muôn đời. Đó là hoa quả chính trên thiên đàng trổ sinh từ cuộc sống
tốt lành của họ trên trần gian. Phúc thay người kính sợ Thiên Chúa”.
Thật vậy, sự kính sợ Chúa là khởi đầu của mọi sự khôn ngoan, người không học
nhiều nhưng kính sợ Chúa thì người đó còn khôn ngoan hơn người có cả ba hay bốn
bằng tiến sĩ nhưng không kính sợ và tin vào Thiên Chúa. Nếu kính sợ Chúa thì
phải đi theo con đường của Chúa, là sống đúng tinh thần của Ngài, sống theo
thánh ý của Ngài, như Chúa Giê-su đã sống:
“Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy”.
(Ga 4,34). Thomas Merton đã chia sẻ: “Trong thâm sâu hiện hữu của chúng ta,
Thiên Chúa đang hiện diện, Đấng muốn chúng ta sống và hiện hữu. Nhưng
chúng ta không tìm thấy Ngài chỉ bằng cách tìm kiếm sự hiện hữu của mình.
Khi đòi hỏi chúng ta sống, Ngài cũng đòi hỏi chúng ta sống theo một cách
nào đó. Mệnh lệnh của Ngài không chỉ bảo chúng ta nên sống theo một cách
nào đó nhưng còn phải sống tốt, và nhất là sống hoàn hảo bằng cách sống
trong Ngài.
Vì vậy, trong những chiều kích thâm sâu hiện hữu của chúng ta, Thiên Chúa
đã đặt ở đó những ngọn đèn lương tâm hầu nói cho chúng ta luật sống.
Sống không phải là sống trừ phi nó tuân theo quy luật này vốn là ý muốn
của Thiên Chúa. Sống cận kề ánh sáng này là tất cả đạo làm người, vì
như thế, con người đến sống trong Thiên Chúa và nhờ Thiên Chúa. Dập tắt
ánh sáng bởi những hành động trái với quy luật này là làm hỏng bản chất
thánh thiêng nơi bản tính của chúng ta. Nó khiến chúng ta không còn trung
thực với chính mình, biến Thiên Chúa thành kẻ nói dối: mọi tội lỗi đều
tác động như nhau, dẫn đến việc thờ ngẫu tượng, thay thế chân lý của
Thiên Chúa bằng sự sai lạc…
Kính sợ Thiên Chúa là đầu mối khôn ngoan. Khôn ngoan là nhận biết Chân Lý
trong tính chân thực nhất của nó; khôn ngoan trải nghiệm Chân Lý, đi đến
Chân Lý ngang qua thái độ chính trực của chính linh hồn. Sự khôn ngoan
nhận biết Thiên Chúa ở trong ta và ta ở trong Ngài”.
Phúc cho người nào kính sợ Chúa, Đi trong đường lối Ngài! Xin Chúa cho chúng ta
biết bắt chước người trộm lành học biết con đường đến với Chúa, con đường của
Chúa. Chúng ta đến với Chúa, gần gũi Ngài hơn, Ngài sẽ dạy chúng ta biết kính sợ
Ngài, như người trộm lành khôn ngoan kính sợ Chúa. Hơn nữa, người trộm lành còn
nhận ra Chúa Giê-su là người Công Chính. Đó là sự khôn ngoan của Đức Tin, sự
khôn ngoan này đưa lại một sự nhận định đúng đắn. Nghĩa là Đức Tin đã giúp nhìn
thấy Đấng Công Chính thật sự, Người tôi trung của Thiên Chúa, đang chịu đau khổ
và sẵn sàng để cho con người ác tâm kết án cách bất công, và đón nhận cái chết
thê lương nhất. Tất cả để cứu rỗi loài người.
Tâm tình thờ lạy và kính sợ Thiên Chúa của người trộm lành còn đưa chúng ta trở
về với Mười Điều Răn, mà chúng ta thuộc lòng từ khi còn là một em thiếu nhi:
Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn. Thứ nhất thờ kính một Đức Chúa Trời và kính
mến Người trên hết mọi sự.
Ngay điều răn đầu tiên này, chúng ta đã được đưa vào trong tinh thần nền tảng
của Ki-tô hữu. Thờ lạy Thiên Chúa và coi Người cao trọng trên hết mọi sự, coi
Người là Trung Tâm Điểm duy nhất của cuộc sống, sẽ giúp cho đời sống của chúng
ta luôn đượm tinh thần của Chúa. Cụ thể, khi chúng ta thờ lạy và kính sợ Thiên
Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ suy nghĩ, nói năng và hành động trong lăng
kính của Chúa.
Thực tế cuộc sống vẫn thế, khổ đau vẫn có mặt, và biết bao vấn đề vẫn ở đó,
nhưng giờ đây chúng ta có được lăng kính của Chúa qua tinh thần thờ lạy và kính
sợ Thiên Chúa, thì mọi điều thực tế của cuộc đời này sẽ không còn làm chủ chúng
ta, và đưa chúng ta vào trong ngõ cụt của cuộc sống, nơi đó thất vọng và buồn
chán đang chờ đợi, nơi đó thần dữ đang giang tay thả lưới đánh bắt chúng ta.
Tinh thần kính sợ và thờ lạy Thiên Chúa trên hết mọi sự của Mười Điều Răn, sẽ
giúp chúng ta giải quyết mọi vấn để của đời người không bằng
chữ đời
nữa,
chữ đời
của giả dối, của lật lọng, của mưu mô xảo quyệt,
chữ đời
của ích kỷ và chiếm đoạt, của kiêu ngạo và ác độc. Chúng ta từ chối
chữ đời,
nói không với nó, là chúng ta đi vào lăng kính của Chúa, vũ trụ của Chúa, và tất
cả mọi chuyện sẽ được đặt trên tiêu chuẩn của bác ái và yêu thương, của khiêm
tốn và hiền hậu, của tin tưởng và cậy trông, của tha thứ và cảm thông. Có như
thế, thì cuộc sống của chúng ta sẽ nở hoa và sinh trái an bình hạnh phúc.
Chúng ta cũng không quên Bảy ơn Chúa Thánh Thần. Một trong Bảy ơn đó là ơn Kính
Sợ Thiên Chúa. ĐTC. Phanxico đã nhắn nhủ trong bài Giáo Lý về ơn kính sợ Thiên
Chúa như sau: “Ơn kính sợ Thiên Chúa, là hồng ân của Chúa Thánh Thần, nhắc nhở
chúng ta rằng mình nhỏ bé ra sao trước mặt Thiên Chúa và tình yêu của Ngài, và
rằng sự tốt lành của chúng ta là do việc phó thác cho Ngài với lòng khiêm nhường,
kính trọng và tin tưởng trong bàn tay của Ngài. Đó là kính sợ Thiên Chúa: phó
thác vào sự tốt lành của Cha chúng ta, là Đấng yêu thương chúng ta rất nhiều…Ơn
kính sợ Thiên Chúa làm cho chúng ta ý thức được rằng tất cả mọi sự đến từ ân
sủng, và rằng sức mạnh thực sự của chúng ta là chỉ đi theo Chúa Giê-su và để cho
Chúa Cha có thể đổ trên chúng ta sự tốt lành và lòng thương xót của Ngài. Hãy
mở tâm hồn ra, bởi vì lòng nhân lành và lòng thương xót của Thiên Chúa đến với
chúng ta. Đó là điều Chúa Thánh Thần làm với ơn kính sợ Thiên Chúa: mở các tâm
hồn. Mở lòng ra để ơn tha thứ, lòng thương xót, lòng nhân lành, sự vuốt ve của
Chúa Cha đến với chúng ta, bởi vì chúng ta là những đứa con đang được Ngài yêu
thương vô cùng.
Khi chúng ta được thấm nhuần bởi ơn kính sợ Thiên Chúa, thì chúng ta có khuynh
hướng đi theo Chúa với lòng khiêm nhường, ngoan ngoãn và vâng lời. Tuy nhiên,
đó không phải là với thái độ cam lòng, thụ động và ta thán, nhưng với sự kinh
ngạc và niềm vui của một em bé nhận ra rằng mình được Cha phục vụ và yêu thương…
Nhưng chúng ta hãy cẩn thận, bởi vì hồng ân Thiên Chúa, ơn kính sợ Thiên Chúa
cũng là một ‘lời cảnh báo’ trước sự ngoan cố trong tội lỗi. Khi một người sống
trong sự dữ, khi phạm thượng chống lại Thiên Chúa, khi khai thác những người
khác, khi áp chế họ, khi chỉ sống vì tiền tài, vì hư danh, hay quyền lực, hoặc
kiêu căng, thì khi đó sự kính sợ thánh thiện đối với Thiên Chúa cảnh báo chúng
ta: hãy cẩn thận! Với tất cả quyền lực này, với tất cả tiền bạc này, với tất cả
kiêu hãnh này của mi, với tất cả hư danh này của mi, mi sẽ không có hạnh phúc
đâu. Không ai có thể mang với họ sang (đời sống) bên kia dù là tiền bạc, dù là
quyền lực, dù là hư danh, dù là kiêu hãnh. Không mang được gì cả! Chúng ta chỉ
có thể mang theo tình yêu mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta, những vuốt ve của
Thiên Chúa, được chúng ta chấp nhận và đón nhận với tình yêu. Và chúng ta có
thể mang theo những gì mà chúng ta đã làm cho tha nhân. Hãy cẩn thận đừng đặt
hy vọng vào tiền tài, kiêu hãnh, sức mạnh và hư danh, bởi vì tất cả mọi thứ ấy
không thể hứa bất cứ điều gì tốt đẹp với chúng ta!”
Như vậy, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn kính sợ Chúa cho chúng ta trong
mỗi ngày sống. Khi có tinh thần kính sợ Chúa, thì cuộc sống sẽ được ánh sáng Đức
Tin và ánh sáng Lời Chúa soi chiếu. Người trộm lành của chúng ta, một cách nào
đó đã sống trong ánh sáng của Đức Tin vào Thiên Chúa nhân hậu, nên anh ta với
lòng khiêm tốn, đã sám hối ăn năn và xin Chúa Giê-su thương đến. Thomas Merton
đã cảm nhận được tinh thần này, lòng kính sợ Chúa được khởi đầu với tinh thần
sám hối ăn năn: “Kính sợ, bước đầu tiên dẫn đến khôn ngoan, là sợ rằng,
mình không chân thật với Thiên Chúa và với chính mình. Đó là sợ rằng, chúng
ta đã tự dối mình, đã ném đời mình dưới chân một vị thần sai lạc.
Nhưng mọi người đều là kẻ nói dối, vì mọi người đều là tội nhân.
Tất cả chúng ta đều sai lạc với Thiên Chúa. ‘Nhưng Thiên Chúa thì chân
thực; và mọi người đều giả dối, như được viết’ (Rm 3, 4).
Lòng kính sợ Thiên Chúa, khởi đầu của khôn ngoan, vì thế, là sự nhìn nhận
‘lời nói dối ở trong tay hữu mình’ (Is 44, 20). ‘Nếu chúng ta nói mình
không có tội, chúng ta lừa dối chính mình, và sự thật không ở trong chúng
ta... Nếu chúng ta nói rằng, chúng ta không phạm tội, chúng ta biến Ngài
thành kẻ nói dối, và Lời của Ngài không ở trong chúng ta’. (1Ga 1, 8.10).
Vì thế, khởi đầu của khôn ngoan là sự xưng thú lỗi lầm. Sự xưng thú
này giúp chúng ta tìm lại được lòng thương xót của Thiên Chúa. Nó làm cho ánh
sáng chân lý của Ngài toả chiếu trong lương tâm chúng ta, không có nó,
chúng ta không thể tránh tội. Nó mang sức mạnh của ân sủng Ngài vào trong
linh hồn chúng ta, gắn kết hành động của ý muốn chúng ta với chân lý
trong khả năng hiểu biết của mình”.
Ăn năn sám hối là tinh thần thứ hai, mà người trộm lành nhắc nhớ người trộm xấu
xa. Anh ta cần ý thức về tội lỗi của cả hai đã phạm, lỗi đó đáng bị phạt, một
hình phạt đích đáng. Điều đó diễn tả sự công bằng cần có. Qua tinh thần sám hối
ăn năn với lòng khiêm tốn thẳm sâu, cuộc đời anh được đổi mới, anh được đón nhận
ân sủng của ơn cứu rỗi mà anh không thể ngờ được.
Hình ảnh của anh trộm lành ngày xưa, chúng ta vẫn còn có thể tìm thấy trong
nhiều thời đại. Có một câu chuyện thật cho thấy những ảnh hưởng của những lời mà
Chúa Giê-su đã nói với anh trộm lành sám hối ăn năn ngay trong thời đại ngày
nay. Một cặp vợ chồng Mê-xi-cô bị cướp mất thẻ tín dụng, giấy tờ và tiền mặt.
Một vài người bạn đã cùng cầu nguyện để giúp họ bình tâm lại và những món đồ bị
cướp có thể tìm lại được. Một tuần sau, cặp vợ chồng nhận được một bao thư dày
được gửi bằng đường bưu điện. Tất cả những vật giá trị của họ đều nằm bên trong
bao thư. Kèm theo là một bức thư ngắn được ký với tên
Người trộm hoán cải.
Và trong bức thư có vẽ ba cây Thánh Giá. Cây bên phải được đánh dấu tròn. Thật
vậy, lòng thương xót và ơn tha thứ của Chúa Giê-su đối với những ai lầm lỡ mà
biết khiêm tốn và hối cải, vẫn đang biến đổi nhân loại.
Tóm lại, tinh thần sám hối và lòng kính sợ Thiên Chúa luôn đi đôi với nhau. Hơn
nữa, sự thống hối ăn năn không bao giờ trễ, tinh thần thờ lạy Chúa chúng ta luôn
tìm lại được, và luôn được Chúa Thánh Thần Chúa ban tặng, khi ý thức kêu cầu
cùng Ngài. Như thế, chúng ta thấy rằng, ngay giây phút cuối cùng, người tội lỗi
vẫn luôn còn cơ hội để trở về, để ăn năn thống hối và nhận được ơn tha thứ, và
nhờ đó thờ lạy và kính sợ Thiên Chúa. Điều đó nêu bật tinh thần hy vọng.
Với người trộm lành, đi đôi với tâm tình kính sợ Thiên Chúa, cùng lòng thống hối
ăn năn, là một lời cầu xin rất chân thành: “Rồi
anh ta thưa với Đức Giê-su: Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến
tôi!”.
(Lc 23, 42). Về lời của anh trộm lành, ĐTC. Benedicto XVI đã chia sẻ như sau: “Lời
thứ hai của Chúa Giê-su trên Thánh Giá được Thánh Luca tường thuật là một lời hy
vọng; nó là câu trả lời cho lời cầu xin của một trong hai kẻ bị đóng đinh với
Người. Người Trộm Lành, trước sự hiện diện của Chúa Giê-su, anh nghĩ đến mình và
hối hận, anh cảm thấy mình ở trước Con Thiên Chúa, Đấng tỏ lộ dung nhan Thiên
Chúa, và cầu xin:
Lạy Ông Giê-su, xin nhớ đến tôi khi vào vương quốc của Ngài”.
Như thế, lời cầu xin của người trộm lành nêu bật được niềm hy vọng. Trong chính
hoàn cảnh vô vọng, anh ta vẫn khiêm tốn hướng đến Chúa Giê-su, để xin Ngài đoái
nhìn, để niềm hy vọng của anh ta được
tròn đầy.
Vâng, hy vọng và không bao giờ bỏ cuộc. Hy vọng mặc dù không còn hy vọng, như
Áp-ra-ham ngày xưa và như người trộm lành trong câu Tin Mừng của chúng ta.
“Kinh Thánh trình bày cho thấy có những niềm cậy trông như bùng phát, trào dâng
hết sức sống động. Một ví dụ trong sách Aica, với khúc hát của một tâm hồn trong
cơn thử thách đau đớn nhất: ‘Tôi, một người từng nếm cảnh lầm than, dưới roi
phẫn nộ của Người. Người đã xua đi và dẫn tôi vào trong tăm tối chứ không phải
vào ánh sáng . Người đã xây tường vít tôi, không để cho ra. Tôi kêu, tôi la,
Người đã bịt lối trước lời tôi cầu nguyện. Và tôi nói : Thế là mất rồi chỗ dựa,
và hy vọng tôi nơi Ðức Giavê’. Và rồi, niềm cậy trông lại bùng lên làm đảo lộn
tất cả. Người đó lại thốt lên với chính mình: ‘Quả ơn nghĩa Giavê không hết,
lòng xót thương của Người không cạn! Thế nên tôi trông cậy vào Người ! Ðức Chúa
sẽ không rẫy bỏ phàm nhân đời đời, cho dù Người có hành hạ, Người sẽ chạnh
thương, chiếu theo lòng nhân hải hà. Có lẽ còn hy vọng’. (x Ac 3, 1 - 29).
Tôi muốn bắt đầu cậy trông trở lại ! Vinh quang thay cho Thiên Chúa, an ủi thay
cho con người nếu những lời đó luôn luôn được lập lại ! ‘Vạn sự tôi đã trông cả
ở Giavê, và Người đã đoái nhìn lại’, đó là lời một vịnh gia cảm nghiệm sự phục
sinh nhờ có lòng trông cậy (Tv 40, 1), và một vịnh gia khác: ‘Tôi trông cậy, lạy
Giavê hồn tôi trông cậy, tôi những trông cậy ở Lời Người’ (Tv 130, 5). ‘Israel,
hãy trông cậy vào Ðức Giavê, từ bây giờ cho đến muôn đời’ (Tv 131, 3)…
Con người cần hy vọng để sống như cần oxy để thở. Nhu cầu này là khẩn thiết đến
nỗi chỉ nguyên nghe nói đến hy vọng là người ta đứng thẳng dậy, và có thể nói,
họ nhìn vào tay bạn, xem bạn may ra có điều gì đó đáp ứng lại nỗi khát khao của
họ. Người ta nói, bao lâu còn hy vọng thì bấy lâu còn sự sống…
Người ta có thể phạm đến đức cậy theo hai cách: hoặc hết hy vọng vào ơn cứu độ,
hoặc cho rằng mình được cứu độ mà không cần có công phúc ; thất vọng và tự phụ.
Cả ở điểm này nữa, cần phải giữ cho Thập Giá và Phục Sinh gắn liền với nhau.
Chịu đau khổ mà không hy vọng Phục Sinh, đó là sự tuyệt vọng, hy vọng Phục Sinh
mà không chịu đau khổ, đó là sự tự phụ. Ðôi lúc tôi tự hỏi tại sao Thiên Chúa
rất thích lòng cậy trông, Ngài không ngừng đòi chúng ta cậy trông vào Ngài. Vẫn
một lòng cậy trông cho dù tất cả mỗi lúc một trở nên khó khăn, nghiệt ngã hơn,
hơn là thực tế hiển nhiên mỗi lần xảy đến đều đập tan niềm hy vọng, chính đó là
tin vào Thiên Chúa hơn là vào các sự kiện hiển nhiên ; là luôn luôn chấp nhận
cho Thiên Chúa có thêm một quyền, một khả năng nữa ; là đặt trọn niềm tin tưởng
vào Ngài…
Như lời thi sĩ Péguy, chúng ta cần phải trở nên ‘những người gắn bó với niềm hy
vọng nhỏ nhoi’. Bạn đã tha thiết, hy vọng một điều gì đó, hy vọng một sự can
thiệp của Thiên Chúa và rồi chẳng thấy gì phải không? Có phải bạn lại hy vọng
thêm một lần nữa mà rồi vẫn không được gì? Tất cả cứ vẫn như trước mắt cho thấy
mình sắp được đoái nhận? Xin bạn cứ tiếp tục hy vọng, cậy trông thêm một lần nữa,
cậy trông mãi mãi, cho đến tận cùng. Hãy trở nên gắn bó với niềm hy vọng. Trở
nên người gắn bó với hy vọng là chấp nhận để cho Thiên Chúa làm bạn thất vọng,
để cho Thiên Chúa lừa dối bạn trên cuộc đời này bao nhiêu tùy ý Ngài. Còn hơn
thế nữa: là thuận lòng, tận thẳm sâu tâm hồn, với việc Thiên Chúa không đoái
nghe lời bạn lần thứ nhất cũng như lần thứ hai, với việc Ngài tiếp tục không
đoái nghe lời bạn, vì như thế là Người cho phép bạn được dâng cho Người thêm một
bằng chứng, được thực hiện thêm lòng cậy trông, mỗi lúc một khó khăn hơn. Người
đã ban cho bạn một ân huệ lớn lao hơn nhiều so với điều bạn kêu xin: ơn trông
cậy vào Người”.
Hy vọng thuộc về tinh thần sống của người Ki-tô hữu, bởi vì niềm hy vọng chúng
ta có là từ nơi Thiên Chúa, và chúng ta không hy vọng vào ai khác, mà là hy vọng
vào chính Thiên Chúa, Đấng là chủ cuộc sống, Đấng yêu thương chúng ta. Ở nơi
Ngài, chúng ta giữ vững niềm hy vọng, dù chúng ta ở trong hoàn cảnh của anh trộm
lành, bị đóng đinh vào Thánh Giá, ở trong hoàn cảnh khổ đau và vô vọng.
Thật vậy, niềm hy vọng của chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa và giá trị tròn đầy của
nó, khi chúng ta hướng lòng lên Chúa và hướng mắt nhìn Ngài, Đấng là nguồn mạch
của niềm hy vọng. ĐTC Benedicto XVI đã diễn tả điều này thật hay: “Vì
vậy, qua câu trả lời này, Người cho chúng ta một hy vọng chắc chắn rằng sự tốt
lành của Thiên Chúa có thể chạm đến chúng ta, ngay cả trong giây phút cuối cùng
của cuộc đời, và ngay cả sau một cuộc sống sai lầm, ai chân thành cầu nguyện sẽ
tìm thấy vòng tay rộng mở của Người Cha nhân lành đang chờ đợi đứa con trở lại”.
Thật vậy, Chúa rất nhân từ, và người trộm lành gọi Chúa là Ngài và cầu xin nhớ
đến anh trên Nước của Ngài.
Tại sao người trộm lành lại nhắc đến chữ Nước hay Vương Quốc của Ngài? Phải
chăng lời của anh ta thốt lên bởi vì anh ta tin vào cái bảng mà người ta treo
trên Thánh Giá của Chúa Giê-su:
“Đây là Vua người Do-thái”.
(Lc 23, 38). Những hàng chữ đó với các người bắt bớ Chúa là bản án giành cho
Chúa mang đầy tính diễu cợt và sỉ nhục, nhưng với người trộm lành có
đôi mắt sáng,
thì tấm bảng đó diễn tả một sự thật mà con người có nhận ra hay không, thì sự
thật vẫn thế. Sự thật nêu bật quyền Vương Đế của Chúa Giê-su, vị Vua trên hết
các Vua. “Rõ ràng người trộm lành tại cây Thánh Giá đã nhận ra rằng, người bất
lực kia là Vua thật, vị Vua mà dân Ít-ra-en đang trông đợi, và ở kế bên anh Ngài
không chỉ đứng trên Thánh Giá, mà Ngài còn đứng trong vinh quang nữa”.
Thật vậy, con người có muốn diễu cợt hay con người muốn công nhận sự thật về
Vương Đế của Chúa Giê-su, thì lời của con người không bao giờ vượt trên sự khôn
ngoan của Thiên Chúa. Cuộc chơi con người đưa ra luôn nằm ở trong vũ trụ và sự
kiểm soát của Thiên Chúa. Chúa Giê-su là Vua người Do-thái, những hàng chữ này
đã được chính con người, dù với dụng ý xấu xa, công bố cách công khai trên Thánh
Giá, để tất cả mọi người đều thấy. Thật tuyệt vời! “Chúa Giê-su đã được nâng cao.
Thánh Giá là ngôi Vua của Chúa, và từ ngôi Vua là Thánh Giá đó, Chúa kéo thế
giới lại với Ngài. Từ nơi này, nơi mà Ngài tự hiến dâng chính mình, từ nơi này,
nơi tình yêu thực sự của Thiên Chúa hiện diện, Chúa đang trị vì như vị Vua đích
thật. Ngài trị vì theo cách thức của Ngài, cách thức đó Phi-la-tô và những nhân
vật thế giá trong Thượng Hội Đồng không thể hiểu được”.
Cách thức của vị Vua tình yêu đầy lòng nhân hậu sẵn sàng mở lời với những người
trông cậy vào Ngài:
“Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng”.
Câu trả lời của Chúa vượt xa điều anh trộm lành cầu xin, Người nói, “Thật, Tôi
bảo anh, hôm nay, anh sẽ được ở cùng Tôi trên Thiên Ðàng”. Trong câu trả lời
của Chúa Giê-su ít nhất có ba điều chúng ta cần chú ý: (1)
Hôm nay,
(2)
ở cùng tôi
và (3)
trên thiên đàng.
Đầu tiên, xin suy niệm về hai từ hôm nay.
Theo Gruen, có hai ý nghĩa của từ ngữ
hôm nay
trong phúc âm của Luca. Thứ nhất là ý nghĩa ở trong mạch văn này: ngay hôm nay,
ngay sau cái chết của Chúa Giê-su, người trộm lành sẽ được đến với Chúa Giê-su
trong nước của Ngài, ngôi vườn đầu tiên và tuyệt vời trên trời mà Thiên Chúa đã
làm cho loài người, và được mọi người gọi là Thiên Đàng (paradise). Như thế
không cần phải đợi chờ lâu la gì. Trong cái chết của anh trộm lành, một sự biến
đổi đến hoàn thiện xảy ra. Đây là một bức tranh thật đẹp và đầy an ủi đối với
chúng ta. Pagila cũng chia sẻ: “Không có thời gian chờ đợi. Chúa Giê-su không dò
xét gì, Ngài không tra hỏi gì, Ngài không đưa ra toà án, cuối cùng Ngài cũng
không truy cứu gì cả. Ngài cứu rỗi ngay hôm nay. Bây giờ và ngay lập tức”.
Ý nghĩa thứ hai của từ
hôm nay
được hiểu trong toàn mạch văn của phúc âm theo Lu-ca. Lu-ca nhắc đến từ ngữ
hôm nay
cả thảy bảy lần.
-
Trong biến cố Chúa Giáng Sinh: “Hôm
nay,
một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng
Ki-tô Đức Chúa”. (Lc 2, 11).
-
Trong biến cố Chúa chịu phép rửa ở sông Gio-đan, có tiếng từ trời phán: “Con
là Con của Cha;
ngày hôm nay,
Cha đã sinh ra Con”. (Lc 3, 22).
-
Thời gian đầu tiên khi Chúa bắt đầu rao giảng trong hội đường ở Na-gia-rét:
“Người bắt đầu nói với họ: “Hôm
nay
đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. (Lc 4, 21).
-
Khi Chúa chữa người bại liệt xong: “Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên
Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau:
Hôm nay,
chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ!” (Lc 5, 26).
-
Chúa nói với ông Gia-kêu, khi ông ở trên cây sung: “Này ông Da-kêu, xuống
mau đi, vì
hôm nay
tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19,5).
-
Trong nhà Gia-kêu, Chúa Giê-su nhắc từ này một lần nữa: “Hôm
nay,
ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ
Áp-ra-ham.
Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. (Lc 19, 9-10).
-
Lần cuối cùng là lần Chúa nói với người trộm lành:
“Thật, Tôi bảo anh,
hôm nay,
anh sẽ được ở cùng Tôi trên Thiên Ðàng”. (Lc 23, 43).
Như thế, bảy lần từ ngữ
hôm nay
Lu-ca dùng diễn tả một điều: với Lu-ca những hoạt động của Chúa Giê-su là thời
gian của chữa lành và thời gian để thực hiện mọi điều tốt đẹp. Như thế,
hôm nay
là thời điểm mà Chúa Giê-su bước vào thế giới chúng ta trong thân phận của một
hài nhi, giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Mà hài nhi đó chính là Đấng
Ki-tô Đức Chúa, thuộc về dòng dõi của Vua Đa-vít. Cũng
hôm nay,
tại giòng sông Gio-đan, một tiếng lạ từ trời cao đã gởi cho chúng ta một sứ điệp
cao quý về Đấng Ki-tô, Đấng đã bước xuống dòng sông của nhân loại, để biến đổi
cho nước của dòng sông này thành nước thanh tẩy tất cả mọi người có lòng ao ước
đón nhận ân sủng của Chúa. Đức Ki-tô chính là Con yêu dấu của Cha trên trời, vì
Ngài vâng phục Cha hoàn toàn, để thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng và đem ơn
cứu rỗi cho mọi người Chúa thương yêu. Vì thế, mỗi ngày là ngày
hôm nay
của Chúa, để Chúa làm cho những ai bại liệt có thể đứng lên được, những ai tội
lỗi và sống trong bóng đêm có thể bước ra ánh sáng. Tại bàn tiệc ánh sáng đó,
Chúa lại nói lời cứu rỗi của
hôm nay.
Và không chỉ dừng bước ở đó. Từ ngữ
hôm nay
của Chúa đã theo bước Chúa tới cây Thánh Giá, để rồi Ngài lại nói với người trộm
lành sứ điệp của ngày
hôm nay,
ngày anh ta được hội ngộ với Chúa trên Nước Thiên Đàng.
Trong cuộc sống của chúng ta, Chúa vẫn nói lời
hôm nay,
đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Mỗi lần chúng ta đón nhận Mình và Máu Thánh
Chúa, là chúng ta đang ở với Chúa trên Nước Thiên Đàng ngay trong ngày
hôm nay.
Nhưng ngày
hôm nay
đó sẽ tìm được ý nghĩa trọn hảo trong cái chết, khi chúng ta được về với Chúa
trên Nước của Ngài.
Cũng như người trộm lành, trong giờ đối diện với cái chết, nếu chúng ta hướng về
Chúa và cầu xin với Ngài, thì ngày
hôm nay
của Chúa sẽ xảy ra với chúng ta, thời điểm
hôm nay
của ân sủng, của lòng thương xót Chúa giành cho chúng ta. Như thế,
hôm nay
tất cả mọi sợ hãi trước cái chết được biến đổi vào trong niềm tin tưởng vào Chúa.
Và ở trong cái chết chúng ta sẽ được gặp gỡ Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Rỗi đang
chiếu sáng ánh hào quang của lòng nhân hậu xót thương ngay ngày
hôm nay,
để Ngài đưa chúng ta về nước Thiên Đàng, nơi đó bóng tối không còn nữa, khổ đau
cũng lùi bước, và sự dữ không có chỗ đứng, nơi đó Thiên Chúa hiện diện và cho
chúng ta được ở bên Ngài, để nếm cảm hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc vĩnh cửu. Và
ở bên Chúa, mỗi ngày đều là
hôm nay,
ngày vĩnh cửu của Đất với Trời thắm thiết hôn nhau, ngày vĩnh cửu của Thiên ôm
ấp Trần vào vòng tay yêu dấu, để Trần luôn được ở cùng Thiên mãi mãi, từ hôm nay
cho đến mãi muôn muôn đời. Tâm tình này đưa chúng ta vào yếu tố thứ hai của lời
Chúa Giê-su nói.
Lời của Chúa nói với người trộm lành mở cho anh một cuộc sống mới, cuộc sống ở
cùng Chúa. Đó là một hồng ân rất tuyệt vời. Từ thân phận bất xứng của kẻ tội lỗi,
anh được Chúa tha thứ và dọn cho anh một chỗ bên Ngài.
Trước hết, tâm tình này liên hệ đến hình ảnh của người Mục Tử nhân lành trong
Thánh Kinh, và đặc biệt nơi Chúa Giê-su. Hình ảnh Mục Tử hiền lành và nhân hậu
quen thuộc đối với người Do-thái, diễn tả sống động hình ảnh Thiên Chúa là Mục
Tử đầy lòng nhân hậu và yêu thương dân của Ngài, đặc biệt giành cho những người
lầm đường lạc lối. Thật vậy, Chúa yêu thương chúng ta, đến nỗi Chúa là người Mục
Tử chạy theo từng bước chân sai lạc của chúng ta, để đưa chúng ta trở về. ĐTC
Benedicto XVI đã diễn tả tâm tình này thật sâu sắc trong thông điệp đầu tiên của
ngài
Thiên Chúa là Tình Yêu – Deus Caritas Est:
“Hành động này của Thiên Chúa mang lấy hình thức bi thảm trong sự kiện, chính
Thiên Chúa trong Đức Giê-su Kitô chạy theo ’con chiên bị thất lạc’, chạy theo
nhân loại đau khổ và bị tiêu vong. Khi Đức Giê-su trong các dụ ngôn nói về người
mục tử chạy theo con chiên bị lạc mất, về người đàn bà đi tìm đồng bạc bị đánh
rơi, về người cha chạy đến người con đi hoang và ôm nó vào lòng, thì đấy không
những chỉ là những lời nói, nhưng là những cách giải thích bản chất và hành động
của chính Người. Trong cái chết thập tự của Người, việc ‘Thiên Chúa quay lại
chống đối chính mình’ đạt đến mức tuyệt đỉnh, khi Người tự hiến chính mình, để
nâng con người lên và cứu độ họ - đó là tình yêu trong hình thức triệt để nhất.
Cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giê-su, mà thánh Gio-an nói đến (x.
Ga 19,37) giúp chúng ta hiểu khởi điểm của thông điệp này: ‘Thiên
Chúa là tình yêu’ (1Ga
4,8). Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm. Và cũng từ đó có thể định nghĩa
tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Kitô hữu tìm được con đường để sống và để
yêu”. (Số 12).
Con đường sống trong tình yêu của người Ki-tô hữu là con đường được Chúa yêu
thương ấp ủ, chính Ngài khi đã tìm lại chiên lạc lối, thì sẽ đưa chiên của Ngài
đến một nơi thật tuyệt vời, với đồng cỏ xanh tươi, với dòng nước trong lành, để
bồi bổ và để tận hưởng niềm vui của tình yêu, niềm vui của niềm tin vào Chúa,
Mục Tử nhân hậu, như Thánh Vịnh gia diễn tả:
“Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.”
(Tv 23, 2-3a).
Được Chúa cho nằm nghỉ êm ấm trên đồng cỏ xanh, và được Chúa cho uống những dòng
nước trong lành, thì còn gì tuyệt vời hơn. Nơi đó chính là
mảnh đất hứa,
nơi đó con cái Chúa được lòng nhân hậu và tình thương của Ngài ấp ủ, nơi đó con
cái Chúa tận hưởng tình yêu được ở trong nhà Ngài, ở trong đền Ngài mãi mãi. Đó
chính là hạnh phúc mà Thánh Vịnh gia nhận ra, và kể lại cho mọi người kinh
nghiệm về hạnh phúc được ở cùng Chúa:
“Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên”.
(Tv 23, 6).
Cả một cuộc đời được tình thương Chúa ấp ủ. Ngài tháng năm dài được sống trong
đền Chúa. Đó lành hạnh phúc thiên đàng mà có lẽ ai ai cũng ao ước. Thật vậy, dù
cuộc đời hôm nay có
rao bán
nhiều thứ hạnh phúc khác nhau, hạnh phúc hưởng thụ vật chất với một đời sống
tiện nghi sung túc, hưởng thụ thoả mãn những lạc thú của cuộc đời, hạnh phúc đạt
được những danh vọng và quyền lực đưa con người lên đỉnh cao, trở thành trung
tâm điểm của cuộc sống, thì những thứ hạnh phúc đó không bao giờ tồn tại vĩnh
viễn được. Những hạnh phúc đó mỏng manh như phận người mỏng dòn, những hạnh phúc
đó mau chóng tàn phai như đời người có thể sáng nở tươi nhưng tối tàn phai mà
chẳng ngờ được. Những hạnh phúc con người tự tạo nên đều giới hạn như đời người
nhiều lắm là 100 cái xuân xanh. Cuối cùng, chỉ có hạnh phúc được ở cùng Chúa,
được sống trong vòng tay ấp ủ của Người Mục Tử nhân hậu, được ở kề bên lòng Chúa,
mới tồn tại vĩnh viễn. Và không có sức mạnh nào, kể cả cái chết có thể lấy mất
đi hạnh phúc đó. Vì thế, người trộm lành được diễm phúc đón nhận hạnh phúc cao
quý này, đó là hồng ân tuyệt vời của tình yêu vô điều kiện mà Chúa Giê-su đã
dành cho anh. Hiệp với người trộm lành hạnh phúc, chúng ta có thể mượn lời của
Thánh Vịnh gia thốt lên rằng:
“Còn hạnh phúc của con là ở kề bên Chúa,
chốn ẩn thân đặt ở Chúa Trời”. (Tv 73, 28).
Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã cảm nhiệm về lời Thánh Vịnh này như sau: “Trong
kinh nghiệm của thánh vịnh 73, Thánh Vịnh gia nhìn thấy Thiên Chúa và xác tín
rằng, ông ta không cần gì ngoài một tâm tình, là ông gặp gỡ được Thiên Chúa
trong mọi sự”.
Tìm gặp được Chúa và được ở cùng Ngài. Đó là đích đến của đời người. Đó chình là
Thiên Đàng mà ai cũng ao ước. Pagila nói rằng: “Sống kết hiệp với Chúa Giê-su,
chúng ta ở trên thiên đàng”.
Người trộm lành đã đạt tới đích đến này, nghĩa là được vào nước Thiên Đàng, là
do ân sủng nhưng không của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Như thế, “hai người
bị đóng đinh hai bên hướng nhìn về Con Người đã đến chia sẻ số phận của họ, và
cùng chết với họ. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Trước kia,
Chúa Giê-su đã không ngừng nhắc rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như một món quà
tuyệt đối cho không; Người đã đến trần gian không phải để kêu gọi người công
chính, nhưng là kẻ tội lỗi. Trong giờ phút quyết luyệt này, khi lìa thế để về
bên Cha, Chúa Giê-su chứng thực lời Người một cách rõ ràng không thể tưởng tưởng
được. Với người tử tội ấy, kẻ đã biết nhận rằng chúng ta như chịu như thế này là
đích đáng, và chẳng biết cậy vào đâu ngoại trừ lòng phó thác khiêm tốn và đầy
nhân ái của mình, với con người ấy, thì từ trên Thánh Giá, Chúa Giê-su tuyên bố:
Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Chúng ta hãy nghe nhà hùng biện
Công Giáo Bossuet: Hôm nay: thật là nhanh chóng! Ở với tôi: cùng hội cùng thuyền
quá tuyệt diệu! Trên thiên đàng: nơi ở bao tuyệt vời! Vậy thì ai còn hoài nghi
được nữa về lòng thương xót của Thiên Chúa, ai còn có thể đem công đức của mình
ra khoe nữa?”
Lời của Chúa Giê-su nói với anh trộm lành xa lạ thật là đẹp biết bao. Đó là sứ
điệp nhân hậu và tràn đầy ơn cứu rỗi của Ngài muốn gởi tới tất cả những ai, dù
quá khứ của họ thế nào, nếu họ biết khiêm tốn, ăn năn và hướng về Chúa để cầu
xin, thì đều được Chúa đón nhận. Karl Rahner đã suy niệm về lời này của Chúa
thật sâu sắc: “Chúa đang đối diện với sự chết, và Chúa vẫn có chỗ trong sự đau
khổ quằn quại đang tràn ngập trái tim Chúa, một chỗ cho một người lạ lẫm. Chúa
đang chuẩn bị chết đi – nhưng Chúa vẫn lo lắng cho một phạm nhân, kẻ đã thú thật
rằng anh ta xứng đáng chịu hình phạt đau đớn và án chết thê lương này, vì những
gì xấu xa anh ta đã gây ra. Chúa nhìn thấy Mẹ mình, nhưng lời đầu tiên Chúa lại
nói với đứa con hoang đàng. Chúa cảm nhận sự bỏ rơi của Thiên Chúa, nhưng Chúa
lại nói về Thiên Đàng. Đôi mắt của Chúa trở nên mờ tối trong đêm đen của cái
chết, nhưng đôi mắt ấy lại thấy Ánh Sáng vĩnh cửu. Trong cái chết, người ta cô
đơn và làm việc với chính bản thân mình, vì người ta đã bị bỏ rơi hoàn toàn.
Chúa đã lo lắng cho các linh hồn, để họ cùng được về Nước Chúa chung với Chúa.
Ôi trái tim Chúa nhân hậu biết bao! Ôi trái tim Chúa rộng lượng và can đảm dường
nào!
Một phạm nhân ăn năn cầu xin Chúa nhớ tới anh ta. Và Chúa đã hứa nước thiên đàng
cho anh. Mọi sự sẽ trở nên mới, khi Chúa chết đi? Một cuộc sống đầy dẫy tội lỗi
và đồi bại sẽ nhanh chóng được biến đổi, khi Chúa hiện diện gần bên? Nếu Chúa
nói lời thánh hoá biến đổi một cuộc sống, thì ngay cả tội lỗi và những gì thô
tục nhất của một cuộc sống trác táng đi hoang sẽ được đón nhận ân sủng và được
biến đổi, đến nỗi không còn có gì là cản trở trên ngưỡng cửa vào gặp Chúa…
Chúa đã nói lời toàn năng tràn đầy ân sủng. Lời đó đã đi vào trái tim của tên
trộm, và lời đó đã biến đổi lửa hoả ngục đến sau cái chết thành một ngọn lửa
tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa, ngọn lửa trong chốc lát đã làm sáng tỏ mọi sự…Và
kẻ trộm được cùng vào nước Thiên Đàng với Chúa.
Chúa cũng ban ân sủng cho con chứ, để con không bao giờ đánh mất sự can đảm, để
không ngại ngùng cầu xin và chờ đợi tất cả ân sủng từ lòng lân tuất nhân hậu của
Chúa? Với sự can đảm con nói rằng: Nếu con là kẻ phạm tội đáng chịu hình phạt
nặng, thì xin Chúa nhớ đến con, nếu Chúa vào Nước Chúa, Chúa ơi!
Ôi lạy Chúa, xin hãy để Thánh Giá Chúa treo thật đàng hoàng trước giường chết
của con. Và xin cho môi miệng của Chúa cũng nói với con: Thật vậy, Ta nói cho
con biết, hôm nay con sẽ ở với ta trên nước thiên đàng. Lời này thôi đã làm cho
con trở nên xứng đáng, để con được thánh hoá hoàn toàn, được thoát khỏi mọi tội
lỗi, và cùng với Chúa và trong Chúa đi xuyên suốt qua sức mạnh của cái chết, và
bước vào Vương Quốc của Cha trên trời”.
-
Bài tập sống sứ điệp thứ hai Chúa Giê-su trên Thánh Giá.
-
Đứng trước Thánh Giá và hướng mắt lên Thánh Giá Chúa. Ngắm nhìn Chúa Giê-su
đang gục đầu xuống như hướng nhìn về bạn. Hãy mở lòng bạn, mở đôi mắt của
bạn và mở đôi tay của bạn để đón nhận Chúa. Bạn có thể giang đôi tay mình ra
như cử chỉ đón mời Chúa.
-
Vẫn ngắm nhìn Chúa trên Thánh Giá. Giờ đây chú ý lắng nghe lời của anh trộm
lành cầu xin Chúa:
“Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”
Nhẩm đi nhắc lại lời ăn năn khiêm tốn này, và sau đó nhớ lại những lầm lỡ và
tội lỗi của mình, đặc biệt tội nào mình cảm thấy nặng nề, và trong thinh
lặng, xin Chúa giúp bạn biết thống hối ăn năn và cầu xin Chúa tha thứ, như
anh trộm lành đã làm.
-
Ngắm nhìn Chúa trên Thánh Giá, và mở đôi ai và mờ tâm hồn lắng nghe Lời Chúa
nói:
“Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”.
Nhẩm đi nhắc lại lời này, để lời này thấm vào trong tâm hồn. Bạn cảm thấy
Chúa nhân hậu và giàu lòng thương xót biết bao. Hãy ở lại trong thinh lặng
vài phút để cảm nếm hương vị dịu ngọt của lòng Chúa xót thương. Cuối cùng
cảm tạ tri ân Chúa với một lời cầu nguyện ngắn.
-
“Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi
với!”
Lắng nghe lời của anh trộm bên trái cứng đầu. Nhắc đi nhắc lại đôi lần lời
này. Suy xét xem bạn đã có trách nhiệm gì với phần rỗi linh hồn của bạn? Bạn
có ý thức về những gì tội lỗi mà bạn đã gây ra và khiêm tốn sám hối ăn năn
xin Chúa giải thoát hay bạn vẫn cứng đầu? Điều gì làm cho bạn cứng đầu hay
nói khác đi điều gì đang cản trở bạn khiêm nhường, cản trở bạn sám hối ăn
năn? Cuối cùng xin Chúa giúp bạn tháo cởi những trở ngại đó, để có thể trở
nên một con người khiêm tốn và hiền lành, luôn sám hối và tin tưởng vào lòng
Chúa xót thương.
Mong sao niềm tin vào Chúa Giê-su đầy nhân hậu sẽ giúp chúng ta sống đời khiêm
tốn, cầu nguyện, sám hối và trông cậy vào Chúa luôn, để qua đó chúng ta đón
nhận được ơn cứu rỗi.
Cũng xin Chúa giúp chúng ta có trái tim chú ý đến người khác, dù họ xa lạ như
anh trộm kia, hay gần gũi với Chúa như Mẹ Ngài và người môn đệ mà Ngài yêu
thương nhất, là Thánh Gio-an tông đồ.
Tác giả:
Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
|