LẠY CHA, XIN THA CHO HỌ, VÌ CHÚNG KHÔNG BIẾT VIỆC HỌ ĐANG LÀM (LC 23,34).
Lm. Nguyễn Ngọc Thế SJ.
Lời đầu tiên trên Thánh Giá Chúa Giê-su nói, nằm trong bài thương khó của Phúc
Âm thánh Lu-ca (Lc 22,1 - 23,56). Trong Phụng Vụ, bài thương khó này được đọc
vào Chúa Nhật lễ Lá - năm C. Lời đầu tiên này ở trong bối cảnh quân lính dẫn
Chúa Giê-su tới Đồi Sọ, và chúng đóng đinh Ngài vào thập giá. Với Ngài cũng có
hai tên gian phi cùng bị đóng đinh, một tên bên trái và một tên bên phải (Lc 23,
33-34). Sự kiện này được cả bốn Tin Mừng thuật lại. Tuy nhiên, chỉ có Lu-ca nhắc
đến câu nói của Chúa Giê-su
Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ đang làm.
Đồi Sọ gợi lên một đồi trọc, không cây cối. Nơi hành hình được định vị ngoài
thành thánh. Vùng đất thánh được bao bọc chung quanh, là một khu vực thánh không
được xác nạn nhân làm ô uế. Nhưng nơi hành hình này gần cửa thành Giê-ru-sa-lem,
vì chính quyền muốn những khách bộ hành trông thấy những nạn nhân hấp hối để răn
đe.
Như thế, chúng ta có trước mắt một khung cảnh là Đồi Sọ, tại đó Chúa Giê-su
chẳng có tội tình gì, lại bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, hai tội nhân bị
kết án tử. Điều này diễn tả về sự nhục nhã hết sức mà Chúa Giê-su phải chịu,
nhưng đó là số phận của người tôi trung“đã
hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân”
(Is 53,12). Nếu chúng ta lắng nghe cả bài thương khó của Lu-ca, sẽ thấy Chúa đã
nhắc lại sấm ngôn này cho các môn đệ, khi ở trên đường từ Bữa Tiệc Ly đến vườn
Ô-liu:
“Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh
Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về
Thầy sắp được hoàn tất”.
(Lc 22,37)
Chúa Giê-su bị liệt vào hàng phạm pháp. Nhưng Ngài đã phạm tội gì? Không ai tìm
thấy tội tình gì nơi Ngài để kết án được. Chính Phi-la-tô đã lên tiếng tất cả ba
lần về sự vô tội của Chúa Giê-su trong phúc âm thánh Lu-ca. Lần thứ nhất:
“Ta xét thấy người này không có tội gì”.
(Lc 23,4). Lần thứ hai:
“Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi
cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi
tố cáo”.
(Lc 23,14). Và lần thứ ba:
“Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng
chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra”.
(Lc 23, 22). Dân chúng có đồng ý với Phi-la-tô để thả Chúa Giê-su không? Tin
Mừng đã cho chúng ta thấy lòng hiểm độc của dân chúng, đến nỗi cuối cùng
Phi-la-tô phải lên tiếng:
“Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!”
(Mt 27, 24). Sau đó thì sao?
“Toàn dân đáp lại: Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi! ”
(Mt 27,25).
Thật là dã man và bất nhân biết bao. Thay vì thả Chúa, một người vô tội và là
một Ráp-bi tốt lành, thì dân chúng lại tha thứ cho một kẻ giết người - Ba-ra-ba:
“Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!”
(Lc 23, 17). Tiếng la hét đầy bạo lực và đượm màu bất nhân, tiếng la hét của
lòng người ác độc đẩy Đấng Cứu Thế tới thập giá chỉ giành cho kẻ phạm pháp.
Tiếng la hét của thế giới đang bị thần dữ chế ngự và làm chủ. Tiếng la hét của
một thế giới từ chối Chúa Giê-su - vị Vua đích thực, để theo một vị vua trần
thế:
“Ông Phi-la-tô nói với họ: ‘Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?’ Các
thượng tế đáp: ‘Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da.’”
(Ga 19,15). Là nạn nhân của sự thù hằn của những người có thế lực trong xã hội
và tôn giáo thời đó, Chúa đã bị đẩy vào mảnh đất đầy sỉ nhục và phải đón nhận án
tử từ đám đông dân chúng, với sự hậu thuẫn và xúi giục của nhóm người có thế
lực. Một mạng lưới bất nhân đã được dệt lên, để bắt cho được kẻ thù không đội
trời chung, dù kẻ thù đó là một người vô tội, tốt lành và theo lẽ thường cần
được trân trọng và yêu quý. Trước mạng lưới đầy bất nhân này, cả người nắm chính
quyền thời đó, dù không thấy tội gì để kết án Chúa, cũng phải chào thua:
“Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá”.
(Ga 19, 16).
Thập giá trên đồi sọ, Chúa Giê-su bị đóng đinh treo lơ lửng trên đó. Con Thiên
Chúa xuống thế làm người ngay từ ngày đầu tiên khi chào đời đã ở trong cảnh
nghèo nàn của nhân loại, và khi chết đi cũng ở trong cảnh thê lương của nhân
loại. Karl Rahner, khi suy niệm lời này của Chúa Giê-su, đã diễn tả thật sống
động hình ảnh đau thương của Chúa Giê-su: “Chúa bị treo trên Thánh Giá. Họ đã
đóng đinh Chúa. Chúa không thể chạy trốn khỏi cây cao nối đất với trời này. Các
vết thương đang cháy bừng trong cơ thể Chúa. Mão gai đang tra tấn thân thể Chúa.
Trong đôi mắt của Chúa máu không ngừng chảy. Ôi các vết thương trên đôi tay và
đôi chân Chúa – chân tay Chúa như bị một cây sắt nóng rực đâm xuyên suốt qua. Và
tâm hồn của Chúa như là biển cả tràn đầy buồn bã, khổ đau và vô vọng”.
Thật vậy, Chúa Giê-su đã sẵn sàng đón nhận tất cả, dù đó là khổ đau tận cùng của
bất nhân và ác độc. Ngài đã đón nhận với tình yêu và lời xin vâng trọn vẹn.
Vâng theo ý Cha một cách triệt để, đến nỗi bằng lòng chết đi và chết trên cây
thập tự. Cái chết trên cây thập tự là một cái chết nhục nhã, chỉ giành cho những
kẻ gây ra tội ác. Cái chết đó không ai muốn chọn cả. Còn Chúa, dù biết là đau
đớn, nhục nhã và bất công, nhưng Chúa vẫn không chạy trốn thập giá trên đồi cao
kia. Chân tay Ngài sẵn sàng dang ra, để con người đóng đinh Ngài trên thập giá.
Phải chăng Ánh Sáng là Ngài đã thực sự bị bóng đêm thổi tắt? Phải chăng bóng đêm
của tội lỗi và của thần dữ đã cướp đi mất Ánh Sáng vĩnh cửu kia? Thập giá đứng
sừng sững trên đồi cao. Trong cơn đau đớn tột cùng của thân xác và của tâm hồn,
đối diện với những đám lính vừa đóng đinh Ngài, và trong sự hiện diện của đám
đông đi theo Ngài trên đường thương khó, Chúa Giê-su vẫn lên tiếng cầu nguyện
với Cha trên trời:
Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm.
Đó là lời cầu nguyện của Chúa với Cha trên trời. Thánh Lu-ca luôn diễn tả nét
đặc biệt nơi Chúa Giê-su. Đó là: Chúa Giê-su là người say mê cầu nguyện. Trước
và sau những biến cố đặc biệt, Chúa Giê-su đều cầu nguyện. Như biến cố Chúa chịu
phép rửa ở sông Gio-đan, Lu-ca đã thuật lại như sau:
“Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người
cầu nguyện, thì trời mở ra,
và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ
trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
(Lc 3, 21-22). Hay biến cố trong vườn Cây Dầu, Chúa đã chìm mình trong cầu
nguyện, và Ngài đã nhắc nhớ các môn đệ:
“Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”.
(Lc 22, 40). Trước đó, Chúa đã nhắc nhớ mọi người:
“Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp
xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.
(Lc 21, 36). Sự cầu nguyện cần thiết biết bao cho cuộc sống tâm linh. Cầu nguyện
là giây phút gặp gỡ Cha trên trời cách gần gũi và thân mật nhất. Trong cuộc gặp
gỡ đó, người ta có thể đưa theo tất cả mọi thực tế của cuộc đời, niềm vui và nỗi
buồn, khổ đau và hạnh phúc, nụ cười và nước mắt, ngọt ngào và đắng cay. Cha trên
trời là nguồn mạch của cuộc sống, là nguồn an ủi và nguồn tình yêu. Cuộc sống
khởi đi nơi Ngài và kết thúc nơi Ngài. Mọi sự tốt xấu, sáng đen đều phải chấm
hết nơi Cha trên trời. Vì thế, nơi Cha trên trời, mọi người đều được phép giãi
bày tất cả, đều có thể tuôn tràn tất cả mọi sự. Chính Chúa Giê-su đã sống tinh
thần này. Trong tương quan tình yêu với Cha trên trời, Chúa Giê-su đã chia sẻ
tất cả mọi sự. Trước đó Ngài đã tâm tình với Cha:
“Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý
con, mà làm theo ý Cha”
(Lc 22, 42), thì giờ đây Ngài lại xin cùng Cha
Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm.
Thật tuyệt vời mối tình Cha Con.
Tuyệt vời hơn, khi chúng ta suy niệm kỹ lưỡng từng từ một trong lời cầu nguyện
ngắn ngủi này, để khám phá sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong lô-gíc tình yêu mà
Ngài giành cho nhân loại.
Đọc lại lần nữa lời cầu nguyện đầu tiên này, chúng ta ngạc nhiên thấy rằng, Chúa
Giê-su đã không cầu nguyện để xin Cha ra tay công bằng xử phạt những kẻ bất nhân
hãm hại Ngài, mà Ngài cầu nguyện với Cha, để xin Cha tha thứ cho họ. Đó chính là
lô-gíc của tình yêu Thiên Chúa. Lô-gíc này ngược hẳn với tất cả mọi lô-gíc của
cuộc đời. Đúng thật, sự khôn ngoan của con người không phải là sự khôn ngoan của
Thiên Chúa. Ý nghĩ của Thiên Chúa không phải là ý nghĩ của loài người. May thay!
Pagila đã suy niệm về tình yêu Thiên Chúa qua lời tha thứ của Chúa Giê-su như
sau: “Trong lời đầu tiên của Chúa Giê-su nói trên Thánh Giá đã được tóm tắt nội
dung của sứ điệp tình yêu của Chúa. Đó là tinh thần của Tin Mừng hay nói đúng
hơn là bản chất của Thiên Chúa. Thánh Gio-an đã định nghĩa rằng: Thiên Chúa là
tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa thì vĩnh cửu và vô biên. Tình yêu này đã thúc
đẩy Thiên Chúa rời bỏ trời cao để xuống trên đất thấp và đã sống là một người
giữa muôn người. Tình yêu này của Thiên Chúa vượt trên mọi ngăn cách, mọi biên
giới của các dân tộc, và vượt trên mọi loại hàng rào, ngay cả hàng rào mà chúng
ta có quyền và được phép tạo nên. Thật vậy, tình yêu của Chúa vươn dài tới điều,
Ngài tha thứ cho kẻ thù và cho những người bắt bớ Ngài. Đó chính là sứ điệp mà
Chúa Giê-su đã loan báo trong những giây phút đầu tiên trên hành trình sứ vụ của
Ngài, và sứ điệp này của Chúa có giá trị vĩnh viễn và cho tới muôn đời”.
Thật vậy Chúa tha thứ cho kẻ thù mà Chúa gọi là
họ.
Vậy họ là ai?
Họ
chính là những tên lính La Mã, những người làm theo lệnh của Phi-la-tô đóng đinh
Chúa Giê-su cho đến chết. Họ chỉ làm theo mệnh lệnh, nhưng những lời chế nhạo,
những đòn roi đã thể hiện sự tàn bạo, sự hung tợn trong chính họ.
Họ
còn là những đám đông dân chúng bị lầm lạc, bị mê hoặc, những kẻ ấy đã bắt Chúa
Giê-su phải chết và ép buộc Phi-la-tô giết Ngài. Bọn người ấy chỉ vài ngày trước
đã tung hô Chúa Giê-su là Vua (Mc 15,6-14, Mc 11,8-10), còn giờ thì dã tâm giết
Chúa trên thập giá. Thật tàn bạo, thật khủng khiếp và thật bất công!
Karl Rahner đã suy niệm về nhóm người đứng dưới chân thập giá của Chúa như sau:
“Tất cả những người đã dàn xếp mọi chuyện này, đang đứng dưới thập giá. Họ không
bỏ đi, để ít nhất cho Chúa trút hơi thở cách bình lặng. Họ ở lại. Họ cười nhạo.
Họ nghĩ rằng, họ có quyền để chỉ ra rằng, hoàn cảnh của Chúa lúc này chính là
chứng minh hùng hồn rõ rệt nhất cho việc: những gì họ đã làm với Chúa là thực
hiện trọn vẹn công lý thánh thiện nhất, một hy lễ thánh mà họ đã làm và họ kiêu
hãnh về điều đó. Vì thế, họ cười, họ chế nhạo, họ báng bổ Chúa. Họ đánh đập
Chúa. Những điều này thật dễ sợ hơn mọi nỗi đau của thân xác cộng lại. Có thể có
những người có khả năng làm những điều đê tiện như vậy chăng? Giữa Chúa và những
người này còn có bất cứ điều gì chung nữa không? Một người có thể được phép hành
hạ người khác đến chết như vậy chăng? Với dối trá, với thô bạo, với bội phản,
với vờ vĩnh, với mưu mô xảo quyệt họ đã hành hạ Chúa cho đến chết, tệ hơn nữa họ
còn tự cho mình có quyền làm điều đó với tư cách là những người trong sạch,
những người như các quan toà cầm cân nảy mực”.
Nhưng tất cả mọi sự xấu xa đó không cản bước chân của Đấng Cứu Độ, không làm cho
bản chất của Đấng Cứu Độ bị thay đổi. Bản chất đó là tình yêu tràn đầy lòng
thương xót và tha thứ, mà Chúa Giê-su đã loan báo. Đối với thần học gia
Ratzinger, Đức Thánh Cha Benedicto XVI, thì: “điều mà Chúa đã rao giảng trong
Bài Giảng Trên Núi, Ngài đã thực hiện cách trọn vẹn. Chúa không biết ghen ghét
là gì. Ngài không bao giờ hận thù cả. Ngài đã cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Ngài”.
Và “lời
cầu nguyện đầu tiên của Chúa Giê-su với Chúa Cha là lời cầu bầu, xin tha thứ cho
những lý hình của Người. Với lời này, Chúa Giê-su thực hiện điều mà chính Người
đã dạy trong Bài Giảng Trên Núi khi Người nói
‘Nhưng Thầy bảo các con là những người đang nghe Thầy đây, hãy yêu kẻ thù và làm
ơn cho những người ghét các con’
(Lc 6,27), và Người cũng đã hứa với những người có thể tha thứ rằng
‘Phần thưởng của các con sẽ thật lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao’
(c. 35). Bây giờ, từ trên Thánh Giá, Người không những chỉ tha thứ cho những kẻ
hành quyết Người, mà còn trực tiếp thưa với Chúa Cha để cầu bầu cho họ”.
Lắng nghe lại lời Chúa giảng dạy chúng ta tha thứ trong Kinh Lạy Cha, chúng ta
thấy thật sống động, vì lời này được Chúa Giê-su thực hiện cách mỹ mãn trong
cuộc đời Ngài, và đặc biệt trên Thánh Giá Chúa. Những lời giảng dạy của Chúa đã
tìm thấy ý nghĩa và giá trị trọn hảo trong chính hành động Chúa làm. Hơn nữa,
nếu chúng ta lật lại các trang Tin Mừng, sẽ nhận ra được lòng nhân từ và tha thứ
của Chúa Giê-ru rất rõ nét, cụ thể trong những cuộc gặp gỡ của Ngài với những
người tội lỗi. Hình ảnh của người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng trong thành mà Lu-ca
nhắc đến là một điển hình (x. Lc 7, 36-50). Một cuộc gặp gỡ thật đặc biệt giữa
lòng nhân từ hay thứ của Chúa với thân phận tội lỗi, nhưng chất chứa lòng ăn năn
sâu thẳm của người phụ nữ. Một cuộc gặp gỡ khác giữa Đức Ki-tô và người phụ nữ
bị kết án vì tội lỗi. Bối cảnh và tình tiết của câu chuyện được Gioan diễn tả
thật đặc sắc (Ga 8, 2-11). Đó là người ta đưa chị bị bắt phạm tội ngoại tình đến
với Chúa, để gài bẫy Ngài, bằng cách bắt Ngài phải kết án tử chị ta. Phần tiếp
của câu chuyện các Kit-tô hữu đều biết. Có một nét thật đặc sắc là: Người lớn
tuổi nhất phải bỏ đi sớm nhất, khi Chúa nói với họ:
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”.
Cuối cùng, câu chuyện có một lời kết rất tuyệt vời của Chúa Giê-su với người phụ
nữ tội lỗi:
“Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm
tội nữa!”
Với lòng nhân từ, Chúa Giê-su đã không kết án mà Ngài nói lời tha thứ và đem lại
sức sống mới cho một phận người tội lỗi. Một sức sống mới cần phải đoạn tuyệt
với tội lỗi, một sức sống mới tràn đầy tự do, niềm vui và hạnh phúc.
Điều này Chúa cũng làm với những người đóng đinh Chúa. Trước hết, Chúa chẳng kết
án họ, và trước bản án bất nhân của họ giành cho Chúa, Chúa cũng chẳng cần biện
minh, Lời Chúa nói là tha thứ. Thật tuyệt vời biết bao nhiêu, khi nhận ra điều
này. ĐHY Fulton đã chia sẻ như sau: “Câu
trả lời nằm sẵn ở chữ đầu tiên trên thập giá: Tha Thứ. Nếu như có ai đầy đủ
quyền lực để chống lại bất công thì phải là Chúa Giê-su, Đấng là công lý thần
linh. Nếu có ai đầy đủ lý do để khiển trách kẻ hành hạ mình, đóng đinh chân tay
mình vào cây gỗ, thì đó là Chúa chúng ta. Nhưng không. Vào đúng lúc cây cối
chống lại Ngài, và trở thành thập tự; sắt thép chống lại Ngài và trở thành đinh
nhọn; dây hoa hồng chống lại Ngài và trở thành mạo gai; con người chống lại Ngài
và trở thành lý hình, thì Ngài buông lời Tha Thứ, lời cầu đầu tiên trong lịch sử
xin tha tội cho kẻ thù hành hạ mình:
‘Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng chẳng biết việc mình làm’.
(Lc 23,34)”.
Để có thể hiểu sâu hơn tinh thần tha thứ của Chúa Giê-su qua lời Ngài nói trên
Thánh Giá, chúng ta cũng nên suy niệm về những gì Chúa không nói lúc đó. ĐHY
Fulton đã chú ý đến điểm này và chia sẻ rất sâu sắc: “Xin
dừng lại khoảnh khắc để suy niệm những gì Ngài không nói: Ngài không nói: Tôi vô
tội. Nhưng trên thế gian này ai vô tội hơn Ngài? Từ trước khi có Thứ sáu Tuần
thánh và về sau, khi người ta bị treo lên thập giá, hoặc máy chém hoặc giàn xiết
cổ, hỏa thiêu biết bao tội nhân vô tội nhưng thử hỏi đã có người nào không kêu
gào mình vô tội? Chúa Giê-su không hề mở miệng phản đối lý hình. Bởi vì làm như
vậy, Ngài mặc nhiên công nhận quyền xét xử của loài người, kẻ phàm nhân xử án
Thiên Chúa! Vậy Đấng vô tội không khẳng định mình trong trắng, thì chúng ta là
kẻ tội lỗi đầy mình lại dám tự nhận như vậy? Muôn đời xin đừng la lớn mình vô
tội, kẻo lừa dối thiên hạ. Bởi làm như vậy chúng ta ngộ nhận rằng con người chứ
không phải Thiên Chúa là quan án nhân loại. Thực ra, linh hồn mọi người sẽ được
xét xử không phải trước toà án loài người, mà trước tôn nhan Đấng tối cao, Thiên
Chúa của tình yêu, và ‘Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ thưởng công cho anh em trong
bí ẩn’. Ơn cứu độ muôn đời của chúng ta không lệ thuộc vào thế gian xét xử, mà
vào Thiên Chúa đoán xét…
Một điều khác Chúa Giê-su không nói trên thập giá cho các đại diện vua Caesar và
của quyền bính đền thờ, là Ngài chẳng bảo họ ‘quí vị bất công’. Thiên Chúa Cha
đã ban cho Ngài mọi quyền xét xử, nhưng Ngài không sử dụng nó để nói: ‘Quí vị sẽ
chịu khốn nạn vì việc này’. Với tư thế vừa là Thiên Chúa vừa là người, Ngài thấu
rõ nếu còn sự sống thì còn hy vọng. Cho nên lúc này các đau khổ kiên trì của
Ngài còn khả năng cứu chuộc nhiều linh hồn đang lên án Ngài…Như vậy, nếu Chúa
Giê-su không xét đoán các lý hình của mình trước kỳ hạn phán xét của họ, thì tại
sao chúng ta thường làm như vậy? Nhất là khi chúng ta không có kiến thức đầy đủ
về họ lại đoán họ xúc phạm đến mình? Lúc còn đang sống có thể nhờ việc kìm hãm
xét đoán của chúng ta, mà họ ăn năn trở lại. Trong bất cứ hoàn cảnh nào quyền
năng xét đoán chưa ban cho chúng ta, và thế giới có thể sẽ biết ơn Thiên Chúa về
việc này. Bởi lẽ Ngài là quan tòa chính xác và nhân từ hơn người ta: ‘Các ngươi
đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét’ (Mt, 7,1)”.
Không xét đoán, không biện minh, dù Chúa có quyền và có thể làm điều đó. Ngay
trong khổ đau nhất và chìm giữa bất công nhất, Chúa lên tiếng: Tha thứ. Đó là
một sứ điệp cao quý của Đấng Cứu Độ. “Tha
thứ. Tha thứ cho các Philatô của bạn, họ không đủ can đảm để bênh vực công lý.
Tha thứ cho các Hêrôđê của bạn, họ sống quá bê tha, không còn khả năng hiểu được
tinh thần. Tha thứ các Giuđa của bạn, họ nghĩ chỉ tiền bạc là tất cả: ‘Tha thứ
cho họ, vì không biết việc mình làm’. Trong câu nói này gói ghém Tình Yêu của
Chúa Cha và Chúa Con. Nhờ câu nói này, tình yêu thánh thiện của Thiên Chúa gặp
gỡ tội lỗi nhân loại, nhưng vẫn y nguyên tinh tuyền. Câu nói đầu tiên của Chúa
Giê-su: Tha thứ, là bằng chứng hùng hồn nhất tính vô tội tuyệt đối của Ngài. Còn
toàn thể chúng ta đến giờ chết sẽ được xem thấy hằng hà sa số các tội lụy diễn
ra trước mắt, đến nỗi chúng ta quá khiếp sợ để ra trước tôn nhan Thiên Chúa, mà
không cầu xin Ngài tha thứ. Chúa Giê-su, ngược lại, không cần ơn tha thứ khi gục
đầu chết, bởi Ngài không hề có tội lỗi nào. Lời Ngài xin tha thứ là cho những kẻ
tố cáo Ngài, và lý lẽ Ngài đưa ra là: Họ không biết việc họ làm”.
Đó là vế thứ hai của lời cầu nguyện đầu tiên. Nhưng làm sao Chúa Giê-su lại có
thể nói
họ không biết việc họ làm?
Theo một góc độ nào đó thì họ phải biết việc họ đang làm, nhưng họ không nhận ra
điều đó là tội ác tày trời. Đó chính là giết chết Con Một của Thiên Chúa.
Nếu suy niệm kỹ lời này, chúng ta thấy, trong lời cầu xin Chúa Cha tha thứ tội
lỗi cho những kẻ quay lưng lại với Ngài, những kẻ thi hành án tử hình, Chúa
Giê-su đã thực sự biện hộ cho họ, và đó cũng là một cách minh chứng hùng hồn
nhất rằng, điều Ngài đã dạy là hoàn toàn có thể:
“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”
(Mt 5,44). Biết bao nỗi tủi nhục và đau đớn mà bọn La Mã đã gây ra cho Ngài,
Ngài vẫn tha thứ cho họ. Ngài thậm chí còn tha thứ cho những kẻ quay lưng lại
với Ngài. Karl Rahner đã suy niệm về điều này: “Chúa ơi, Chúa lại nói: Lạy Cha,
xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm. Không thể hiểu Ngài được, Chúa
Giê-su ơi. Trong một tâm hồn tan nát và tràn đầy khổ đau, Chúa lại có thể kiếm
được ở đâu một chỗ, để có thể thốt lên những lời đó? Không thể hiểu Ngài được,
Chúa Giê-su ơi. Chúa yêu thương kẻ thù của Chúa. Chúa phó thác kẻ thù vào cho
Cha trên trời. Chúa cầu nguyện cho họ. Ôi, Chúa ơi, con có ngớ ngẩn để nói rằng:
Chúa xin lỗi dùm cho họ, bởi vì họ không biết việc họ đã làm. Tất cả bọn họ đã
biết, chỉ là họ không muốn biết đến điều họ đã làm thôi. Thật vậy, nếu người ta
không muốn biết, thì người ta lại biết rõ hơn hết trong sâu thẳm tăm tối của căn
hầm tâm hồn. Nhưng người ta đã ghét bỏ điều đó, vì thế họ không muốn để cho điều
đó tỏ lộ ra bên ngoài trong ý thức. Và Chúa nói rằng, họ không biết việc họ làm.
Một điều chắc chắn họ đã thực sự không biết: Tình yêu của Chúa dành cho họ. Vì
tình yêu này người ta chỉ có thể nhận ra, khi người ta yêu mến Chúa. Vì chỉ có
người yêu thương mới nhận ra được tình yêu đã được ban cho.
Xin Chúa hãy nói lời tha thứ của tình yêu không thể dò thấu được với tội lỗi của
con. Xin hãy cầu bầu với Cha trên trời cho con: Xin tha thứ cho nó, vì nó không
biết việc nó làm. Dù rằng con đã biết mọi sự. Chỉ có một điều con chưa biết. Đó
là tình yêu Chúa.
Xin cũng giúp con biết suy đi nghĩ lại, khi con cầu nguyện và xác quyết với lời
Kinh Lạy Cha cách vô cẩn: Như con cũng tha cho những người có lỗi với con. Ôi
lạy Chúa trên Thánh Giá của tình yêu: Con cũng không biết có ai thực sự lầm lỗi
với con, để con tha thứ cho họ. Nhưng sức mạnh của Chúa cần thiết biết bao, để
thật sự từ trái tim, con có thể tha thứ cho những người mà con cho rằng đó là kẻ
thù của con”. Qua lời suy niệm này, nhà thần học lỗi lạc Karl Rahner đã thú nhận
không thể hiểu được tình yêu của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô diễn tả và sống động.
Xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.
“Đúng vậy, ngay trong đống tro bụi của sự dữ, một chút than hồng của Thiên Chúa
vẫn luôn tiếp tục âm ỉ cháy trong trái tim của chúng ta. Sự tha thứ sẽ thổi bay
đi những tro bụi kia, và sự tha thứ thổi cho tia lửa tình yêu gần tàn kia bùng
lên, để ngọn lửa bùng cháy với sức mạnh mới”.
Đức Thánh Cha Benedicto XVI cũng đã suy niệm lời
họ không biết việc họ làm
như sau: “Thực
ra, theo lời Người, thì những kẻ đóng đinh Người ‘không biết việc chúng làm’ (Lc
23,34). Người đặt sự thiếu hiểu biết, sự ‘vô minh’ của họ như động lực của việc
Người xin Chúa Cha tha thứ, bởi vì sự thiếu hiểu biết này mở đường cho việc hoán
cải, như trường hợp những lời mà viên đại đội trưởng sẽ công bố về cái chết của
Chúa Giê-su: ‘Người này thật sự là người công chính!’ (câu 47). Người này là Con
Thiên Chúa. Vẫn là một sự an ủi cho mọi thời đại và cho mọi người rằng trong
trường hợp những kẻ không thực sự biết Người, những lý hình của Người, và trong
trường hợp những kẻ biết, những kẻ kết án Người, Chúa dùng sự thiếu hiểu biết
như lý do để xin tha thứ cho họ: Người coi nó như một cánh cửa có thể mở lòng
chúng ta ra mà hoán cải”.
Ngoài ra, lời này của Chúa Giê-su cũng nhắc chúng ta nhớ lại lời rao giảng của
Thánh Phê-rô, sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, và sau sự kiện Thánh
Phê-rô chữa người què ở Đền Thờ. Trước hết, Thánh Phê-rô nói cùng đám đông dân
chúng đang tụ họp ở đó:
“Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên
sát nhân.
Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi
dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng”.
(CVTĐ 3, 14-15). Sau sự nhắc nhớ nhức nhối này, Thánh Phê-rô tiếp tục:
“Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như
các thủ lãnh của anh em”.
(CVTĐ 3, 17).
Sự thiếu hiểu biết cũng được Thánh Phao-lô nhắc đến trong sự liên hệ đến chính
tiểu sử và ơn gọi của ngài:
“Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được
Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng
tin”.
(1Tm 1,13). Khi thú nhận như thế, thánh Phao-lô rất can đảm, vì ngày xưa trong
tư cách là một người luôn sống ý thức về mọi việc mình làm, và luôn tuân thủ lề
luật, nên ngài mới đi bắt bớ các người Ki-tô hữu. Khi ngài được Chúa kêu gọi trở
lại, ngài đã thành thật nhận ra sự thiếu hiểu biết của mình, sự nông cạn của
ngài khi chưa có niềm tin. Theo Đức Thánh Cha Benedicto XVI, ngay tại điểm thiếu
hiểu biết này, mà thánh Phao-lô đã được cứu, được biến đổi và đến với Chúa, và
nhận được sự tha thứ của Chúa. Hơn nữa, Đức Thánh Cha còn nêu bật sự song đôi
của hai điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ: một bên là sự hiểu biết qua việc
học hỏi, bên kia là sự thiếu hiểu biết. Ở đây, có thể xảy ra vấn đề của sự hiểu
biết. Đó là người hiểu biết đứng trước một sự nguy hiểm tự kiêu, khi tự nâng cao
mình lên, tự vinh danh mình, tự cho mình là biết tất cả mọi sự, đến nỗi không
còn nhìn ra chân lý và đạt được chân lý có sức biến đổi cuộc sống của con người.
Một lần nữa, trong một cách thức khác, vấn đề hiểu biết và không hiểu biết được
lộ rõ, khi chúng ta lật lại những trang đầu tiên của Tin Mừng về việc Giáng Sinh
của Chúa. Các Thượng Tế và Kinh Sư biết rõ ràng nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra,
nhưng họ đã không nhận ra Ngài. Những người hiểu biết đã bị mù tối. (x. Mt 2,
4-6).
Một cách rõ ràng, sự song đôi của sự hiểu biết và sự thiếu hiểu biết trong ý
nghĩa này luôn tồn tại trong mọi thời đại. Vì thế, Đức Thánh Cha BenedictoXVI
mời gọi chúng ta chúng ta luôn tự hỏi bản thân: Chúng ta đang là những con người
hiểu biết nhưng thực sự là mù tối? Chúng ta đang sống trong tình trạng hiểu
biết, nhưng lại không có khả năng để nhận ra chân lý và sự thật có thể biến đổi
chúng ta?
Viết những dòng suy niệm này trong bối cảnh Giáo Hội vừa có vị chủ chăn mới, kế
vị Đức Benedicto XVI. Đó là Đức Thánh Cha Phanxico, vị Giáo Hoàng thứ 266 của
Giáo Hội. Trong bài giảng đầu tiên trên tư cách là đấng kế vị Thánh Phê-rô, Ngài
đã nói rằng: “Tin
Mừng này tiếp tục với một hoàn cảnh đặc biệt. Thánh Phê-rô, người đã tuyên xưng
Chúa Giê-su Ki-tô, thưa cùng Người rằng: Thầy
là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến
Thánh Giá! Điều
này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà
không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng
mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Đức Ki-tô mà không có Thánh
Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng
ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của
Chúa”.
Như thế, trong đời sống của người Ki-tô hữu, dù ở trong cương vị nào đi nữa, và
dù có thông hiểu nhiều đến đâu, theo Chúa sát đến mấy, xả thân hoạt động và xây
dựng hết cỡ, cũng như mở hết
volume
để tuyên xưng Chúa, mà lại không có Thánh Giá Chúa, không có Chúa trong tâm hồn,
không có Chân Lý là chính Chúa ngự trị, thì thật nguy hiểm biết bao, vì như thế
chúng ta thuộc về thế gian,
chúng ta không phải là môn đệ của Chúa. Như vậy, sự hiểu biết của những nhà
thông thái, kinh sư, thượng đế ở kế bên Thánh Giá Chúa chỉ là sự khôn ngoan của
con người, sự khôn ngoan của họ thiếu bóng dáng của Thánh Giá Chúa. Khoa học
Thánh Giá họ chưa hiểu được, thì làm sao họ có thể hiểu được Chân Lý là gì. Hơn
nữa, cái hiểu đâu phải là tất cả cuộc sống của con người. Cái hiểu đó cần phải
đi vào trái tim, thấm nhuần toàn thể con người, để cả cuộc đời con người gắn
liền với Chân Lý, với Thiên Chúa, với Thánh Giá của Đức Ki-tô. Xin Chúa cho
chúng ta, trong đời sống đức tin theo Chúa, đứng gần Thánh Giá Chúa, nhưng không
bao giờ mù tối đến nỗi không hiểu Thánh Giá Chúa là gì, ngược lại thấu hiểu, cảm
nhận và giang đôi tay, mở rộng tâm hồn đón nhận Thánh Giá Chúa vào đời mình, vì
Thánh Giá Chúa chính là Chân Lý, là khoa học của tình yêu mà Đấng Cứu Thế đã ban
tặng cho nhân loại.
Tóm lại, sự thiếu hiểu biết và nông cạn về niềm tin mà Thánh Phê-rô nhắc đến, và
thánh Phao-lô thú nhận nơi ngài, có thể làm cho tội lỗi chúng ta được nhẹ hơn,
và có thể mở ra một con đường hoán cải trở về. Trở về để xin Chúa mở mắt tâm
hồn, xin Chúa ban cho chúng ta ánh sáng của Ngài, để có thể nhìn ra Thánh Giá
Chúa là khoa học của tình yêu, là Chân Lý mà chúng ta cần mở lòng và giang đôi
tay đón nhận, và luôn sống với Chúa trên đường Thánh Giá trên từng nẻo đường
chúng ta đi. Có như thế, Chân Lý sẽ nở hoa và sinh trái trên đời sống của chúng
ta. Ngoài ra, chúng ta cũng cảm tạ Chúa về lòng nhân từ bao dung của Chúa giành
cho chúng ta, những người thiếu hiểu biết. Đó là một sự an ủi lớn lao. Cũng xin
Chúa giúp chúng ta, khi đã hiểu được tinh thần tha thứ của Chúa, thì cố gắng
sống theo Ngài, như Thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên, đã theo gương và thực
hiện.
Đọc lại câu chuyện thánh Tê-pha-nô bị ném đá, với sự hiện diện của Sao-lô, sau
này trở lại và trở thành vị Tông Đồ dân ngoại, chúng ta thấy được tâm tình cao
quý của thánh nhân:
“Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: ‘Lạy Chúa Giê-su, xin nhận
lấy hồn con.’ Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ‘Lạy Chúa, xin đừng chấp họ
tội này.’ Nói thế rồi, ông an nghỉ”.
(CVTĐ 7, 59-60).
ĐTC Benedicto XVI đã suy niệm biến cố này như sau: “Đây
là lời cuối cùng của ông. Sự so sánh giữa lời cầu nguyện xin tha thứ của Chúa
Giê-su với lời cầu nguyện của vị tử đạo là điều đầy ý nghĩa. Thánh
Tê-pha-nô
thưa chuyện với Chúa Phục Sinh và xin Chúa đừng quy tội cho những kẻ ném đá ông
khi nói về việc người ta giết ông - một hành động được xác định rõ ràng bằng
thuật ngữ ‘tội này’. Trên Thánh Giá Chúa Giê-su thưa cùng Chúa Cha và không
những chỉ xin tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người, nhưng còn giải thích về
những gì đang xảy ra”.
ĐHY Fulton cũng đã chia sẻ về mẫu gương tha thứ của thánh Tê-pha-nô: “Tôi
từ chối ghét bạn. Nếu tôi ghét bạn, tôi sẽ đổ thêm dầu vào lửa. Ngược lại, nếu
tôi không ghét bạn, tôi sẽ giết chết lòng thù hận của bạn và tôi sẽ xóa nó khỏi
mặt đất. Tôi yêu quí bạn. Đó là đường lối thánh
Tê-pha-nô
chinh phục những ai thù ghét ông, giết chết ông. Thánh nhân đã cầu nguyện: ‘Lạy
Chúa xin đừng chấp tội họ về việc này’ (CVTĐ 7,59). Nói chính xác hơn, ông đã
lập lại lời của Chúa Giê-su trên thập giá. Lời của ông đã chiến thắng được tâm
hồn người thanh niên trẻ tuổi tên là Sao-lô, hắn đứng bên cạnh trông coi y phục
cho những lý hình ném đá
Tê-pha-nô
và đồng ý với cái chết của thánh nhân. Nếu như
Tê-pha-nô
nguyền rủa Sao-lô, có lẽ người thanh niên này chẳng bao giờ trở thành thánh
Phaolô, một mất mát quá to lớn. Nhưng thù oán đã thất bại, vì
Tê-pha-nô
tha thứ”.
Ngoài ra, thánh Âu-tinh đã diễn tả rất hay về mẫu gương tha thứ của thánh
Tê-pha-nô, và ngài khuyên bảo mọi người nhìn vào tấm gương thánh nhân, một người
dù bị ném đá như mưa nhưng vẫn cầu nguyện cho những kẻ đang giết mình: “Họ thì
ném đá mà chẳng hề xin ngài thứ tha, còn ngài thì cầu nguyện cho họ. Đó chính là
thái độ mà tôi muốn anh em nhìn xem. Hãy cố gắng vươn tới mức đó. Đừng để lòng
mình cứ sà sà mặt đất hoài. Hãy nâng tâm hồn lên! Vâng, hãy leo cao tới mức đó.
Hãy yêu thương thù địch. Vì nếu anh em không tha, thì tôi xin nói, chẳng những
anh em đã xoá sạch khỏi lòng mình bài Kinh Chúa dạy, mà chính anh em cũng sẽ bị
xoá tên khỏi sách sự sống”.
Lời của thánh Âu-tinh là một lời nhắc nhớ chúng ta ý thức sống tinh thần tha
thứ. Khi sống tinh thần tha thứ, thì chúng ta, những người con cái dưới đất thấp
này, có thể bước trên hành trình nên hoàn thiện, như lòng ao ước của Đức Ki-tô:
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
(Mt 5, 48). Hoàn thiện là một con đường dài của đời người, cũng thế tha thứ là
bài tập cho cả cuộc đời.
Là những người có niềm tin, chúng ta từ thuở nhỏ ai cũng thuộc làu làu Kinh Lạy
Cha. Trong đó có một lời cầu nguyện:
xin tha thứ cho chúng con, như chúng con tha thứ cho những người có lỗi với
chúng con.
Lời cầu nguyện này thật đặc biệt, vì nó đưa chúng ta đi vào thực tế đời sống
hằng ngày, với biết bao đụng chạm, với biết bao bực dọc, cũng như không thiếu
tức tối, ghen ghét và hận thù. Có những người đã chia sẻ rằng, càng đọc lời kinh
này, thì càng nhức nhối, vì thật là khó để tha thứ, đặc biệt tha thứ cho những
người đã gây ra biết bao đau khổ cho cuộc đời mình. Đó là một thực tế không ai
chối cãi được. Tuy nhiên, dù thế nào Chúa vẫn mong chờ chúng ta cố gắng sống
sao, để lời cầu nguyện này có thể
nở hoa sinh trái
trong đời sống thực tế. Vì vậy, tha thứ thật sự là một bài tập cho cả cuộc đời.
Đúng thế, khó thì mới tập, mà càng khó thì càng phải nỗ lực tập mỗi ngày. Một
tâm tình có thể giúp chúng ta tập sống tinh thần tha thứ, là chúng ta nên nhớ
lại sự tha thứ của Chúa giành cho chúng ta như thế nào. Biết bao lần lầm lỡ,
biết bao tội lỗi chúng ta gây ra, làm thương tổn người khác, làm thương tổn đến
chính bản thân mình, và làm xúc phạm đến Chúa, nhưng Chúa đều tha thứ tất cả.
Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi, Ngài đã nói lời xin vâng của tình yêu đối với
mỗi người chúng ta, thì lời xin vâng đó có giá trị đời đời. Sự tha thứ của Chúa
luôn
có chỗ
trong cuộc đời của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta có được đón nhận sự tha thứ này
hay không, còn tuỳ thuộc vào cuộc sống và hành động của chúng ta.
“Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha
thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng
sẽ không tha lỗi cho anh em”. (Mt
6, 14-15). Như vậy, tha thứ cho anh chị em đồng loại là một đòi hỏi giành cho
những ai sống đời sống Đức Tin. Chính sự đòi hỏi này cũng là một lời cảnh báo,
đừng bao giờ để cho những tự ái, những căng thẳng, những vết thương, sự thù hận
và sự chai cứng con tim, “giết chết” lòng nhân từ, nhận chìm thiện chí hòa giải.
Đời sống Ki-tô hữu hệ tại phần lớn ở chính lòng nhân từ thương xót, yêu mến sự
hòa bình và sẵn sàng tha thứ, như chính Đức Ki-tô đã sống và mời gọi chúng ta
sống như Ngài.
Khi tha thứ, là chúng ta đang xây tựng tinh thần hoà bình trong cuộc sống của
mình và của người lầm lỗi với chúng ta. Nói khác đi, tinh thần tha thứ luôn là
cánh cửa mở ra một chân trời mới, một tương lai mới cho cả hai bên, như Simon
Weil đã nói: “Tha thứ cho người có lỗi với chúng ta, nghĩa là hoàn toàn bỏ qua
những chuyện quá khứ, chấp nhận rằng tương lai vẫn còn trong sáng và chưa bị vẩn
đục”. Tương lai của cuộc sống chúng ta cần được gìn giữ và phát triển trên nền
tảng của tình yêu thương. Nhưng đụng chạm, căng thẳng, giận hờn và đôi khi hận
thù không được phép ảnh hưởng mạnh mẽ trên tương lai của chúng ta. Trong chiều
sâu của tâm hồn, ai ai cũng muốn có được bình an. Bình an luôn có với những tâm
hồn nhân ái và dễ dàng thứ tha.
Ngoài ra, ĐHY Fulton chia sẻ về tinh thần tha thứ mà chúng ta cần phải noi gương
Chúa Giê-su Thánh Giá dựa trên ba điều.
Thứ nhất, Thiên Chúa thứ tha cho chúng ta những tội lớn hơn tội thiên hạ. Thứ
hai, chỉ bằng tha thứ mà thế giới không còn hận thù. Thứ ba, sự tha thứ của
chúng ta là điều kiện để mình được tha lỗi. Cụ thể hơn, Fulton giải thích từng
điều một:
“Thứ nhất, chúng ta buộc phải tha thứ tha nhân bởi lẽ Chúa đã tha thứ cho mình.
Chẳng có sự xúc phạm nào mà thiên hạ làm cho mình, có thể lớn hơn sự xúc phạm
chúng ta chống lại Thiên Chúa do tội lỗi mình. Chúa Giê-su đã kể dụ ngôn người
đầy tớ ác độc không tha thứ cho bạn mình để giải thích điểm này (Mt 18,21).
Trong dụ ngôn, ông chủ tha thứ món nợ mười ngàn nén vàng, ra ngoài lập tức hắn
bóp cổ người bạn chỉ nợ y có một trăm nén bạc. Số nợ mà chủ tha cho y 1.250.000
lần lớn hơn món nợ bạn y mắc nợ. Sự chênh lệch biểu lộ chúng ta mắc nợ Thiên
Chúa vì tội lỗi, lớn lao hơn người khác xúc phạm đến mình, cho nên phải tha thứ
cho thù địch là lẽ đương nhiên, vì lý do Chúa đã tha thứ cho chúng ta gấp nhiều
lần hơn về tội đối xử với Ngài như kẻ thù…Người ta từ chối nhận mình có lỗi với
Thiên Chúa, cho nên chẳng bao giờ nghĩ mình cần được thứ tha! Họ nghĩ mình không
cần tha thứ, cho nên họ nghĩ thiên hạ cũng vậy. Người mà không biết mình có tội
với Thiên Chúa, thì ít có khuynh hướng tha tội cho người khác… Người ý thức mình
cần phép giải tội nhất sẽ là kẻ khoan dung nhất đối với tha nhân...
Bởi vì người ta thời nay quên bẵng tội lỗi của mình, cho nên thói xấu thù hận
trở nên cay đắng và sâu sắc hơn. Con người dễ dàng bóp cổ nhau vì vài đồng xu
nho nhỏ. Họ quên Thiên Chúa đã tha thứ cho mình tới mười ngàn nén vàng. Xin hãy
khuyến khích họ nhớ lại đã được Thiên Chúa thương xót thế nào, họ sẽ khởi sự ăn
ở tốt lành với đồng loại.
Lý do thứ hai để tha thứ những kẻ xúc phạm đến chúng ta, là vì nếu chúng ta
không tha thứ, thì hận thù ngày càng chồng chất, đến độ sẽ làm nổ tung thế giới
vì ghen ghét. Thù hận luôn là mảnh đất màu mỡ, nếu không bị dập tắt, thì nó tự
phát triển với tốc độ chóng mặt. Nhiều phe đảng lợi dụng tính chất này của hận
thù, nên đã không ngừng gieo rắc nó. Họ biết rằng hận thù phá đổ xã hội nhanh
hơn là các đạo binh, nên không khi nào nói về bái ái. Cứ để hận thù phá hoại lẫn
nhau và sẽ đạt tới mục tiêu dễ dàng. Lịch sử hai cuộc thế chiến chứng minh điều
này là đúng.
Làm thế nào ngăn cản hận thù khi người ta vả má lẫn nhau? Chỉ có con đường duy
nhất là đưa má khác cho người ta vả tiếp! Tôi muốn nói tha thứ…
Cuối cùng, chúng ta phải tha thứ người khác, bởi chẳng còn điều kiện nào nữa để
tội lỗi chúng ta được thứ tha. Thực tế, xét theo nguyên tắc luân lý thì xem ra
vô phương để Thiên Chúa tha tội cho chúng ta trừ phi chúng ta có lòng thứ tha.
Ngài đã nói:
‘Phúc cho kẻ có lòng xót thương vì họ sẽ đuợc thương xót’
(Mt, 5,7).
‘Tha thứ và ngươi sẽ được thứ tha. Hãy cho và ngươi sẽ được cho lại... Thiên
Chúa sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo
anh em, vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng
đấu ấy’.
(Lc 6,37-38).
Có một thứ luật hiển nhiên, không ai có thể thoát được. Bạn không thể gặt, nếu
không gieo trước. Nếu bạn không gieo lòng thương xót nơi đồng loại, Thiên Chúa
sẽ chẳng xót thương bạn. Như trong dụ ngôn trên, người chủ nợ từ chối tha nợ cho
đầy tớ độc ác, bởi lẽ hắn không thương xót tha cho bạn mình món nợ nhỏ xíu.
‘Ấy vậy Cha Thày ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người
trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình’
(Mt 18,35).
Nếu cái hộp đựng đầy muối, nó không thể chứa gì được nữa. Nếu tấm lòng chúng ta
đựng đầy hận thù hàng xóm, làm sao Thiên Chúa đổ tình thương của Ngài vào được?
Đơn giản đến như vậy mà chúng ta không hiểu? Nếu chúng ta không có đầy lòng
thương xót, chúng ta sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Như vậy, thử thách
thực sự của người Kitô hữu là yêu mến kẻ thù thế nào? Chứ không phải thương yêu
bạn bè ra sao? Lệnh truyền của Thiên Chúa quá rõ: ‘Hãy yêu mến kẻ thù ngươi, làm
tốt cho những ai oán ghét anh em, và cầu nguyện cho những ai bách hại và nói xấu
anh em, ngõ hầu anh em là con cái Thiên Chúa, Đấng làm cho mặt trời soi sáng
người lành kẻ dữ và làm mưa rơi xuống người công chính cũng như kẻ bất lương’ Vì
nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em có công chi? Ngay cả người
thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chào hỏi anh em mình thôi, thì
anh em có làm chi lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại không làm như thế sao? (Mt
5,44-47).
Cho nên ta phải tha thứ ngay cả đến bảy mươi lần bảy”.
Ở đây, chúng ta nhớ lại câu hỏi về sự tha thứ của Phê-rô:
“Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có
phải bảy lần không?”
(Mt 18, 21). Phê-rô hỏi Chúa và cứ tưởng rằng ông đã hiểu thấu câu trả lời. Thực
tế, ông chẳng hiểu gì, cho đến khi ông phản bội Chúa đến ba lần và rồi được Chúa
nhìn đến khi gà vừa gáy xong. Đôi mắt nhân từ của Chúa nhìn ông đã giúp cho hiểu
được tình yêu bao la của Chúa dành cho ông. Tình yêu đem lại sự tha thứ và giúp
ông ý thức sám hối ăn năn về tội lỗi chối Thầy của ông.
Trở về với câu hỏi về sự tha thứ mà Phê-rô đặt ra. Chúa Giê-su đáp thế nào?
“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
(Mt 18, 22). Thật thú vị câu trả lời của Đức Ki-tô! Nếu chúng ta làm một con
tính, lấy 1440 phút của mỗi ngày để chia với 490 lần là kết quả của 70 lần 7,
thì trong một ngày, cứ 3 phút cần phải tha thứ một lần. Như thế tha thứ cho nhau
là thái độ thường xuyên và cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Thật vậy, tha
thứ không cần con số. Đừng đếm bao nhiêu lần cần phải tha thứ. Tha thứ không
quen số lượng và không biết đến
chấm hết.
Tha thứ là thái độ sống hằng ngày và không ngừng nghỉ. Và khi sống tinh thần tha
thứ, chúng ta đang cố gắng sống như Chúa Giê-su, là cảm thông, nâng đỡ, cầu
nguyện cho họ, và không trách cứ những chuyện họ làm, vì có thể họ làm những
điều đó, nhưng lại không ý thức và biết rõ về hành động và hậu quả xấu mà hành
động đó để lại.
Anselm Gruen còn đi xa thêm một bước trong tinh thần tha thứ. Đó là không chỉ
tha thứ cho người có lỗi với chúng ta, mà cần phải tha thứ cho chính bản thân
mình. Điều này thuộc về phương diện tâm lý cũng cần chú ý. Thật vậy, những ai có
lòng nhân từ với chính bản thân, thì đang sống tình yêu thương mà Chúa dạy.
Nghĩa là chúng ta cần tập sống yêu thương mình trong ý nghĩa tích cực. Đó là
chân nhận những yếu đuối và lầm lỗi của bản thân với một hướng tích cực. Nghĩa
là người đó có cảm thức về tội lỗi của bản thân, nhưng không rơi vào tình trạng
mặc cảm tội lỗi, đến nỗi rơi vào trong vòng quỷ quyệt đầy tiêu cực, luôn coi
mình là kẻ bất xứng, là kẻ có tội, và cuối cùng rơi vào tình trạng
depression,
mặc cảm với mọi người, sợ hãi mọi người và đánh mất đi niềm vui và ý nghĩa của
cuộc sống. Vì vậy, tha thứ cho chính mình là điều cần phải tập. Bí tích Hoà Giải
mà Chúa Giê-su lập ra chính là món quà quý báu, để chúng ta có thể tập sống tha
thứ cho chính bản thân mình và tha thứ cho người khác, qua tâm tình chúng ta đón
nhận ơn tha thứ của Chúa từ nhân trong lòng Giáo Hội.
-
Đứng trước Thánh Giá và hướng mắt lên Thánh Giá Chúa. Ngắm nhìn Chúa Giê-su
đang gục đầu xuống như hướng nhìn về bạn. Hãy mờ lòng bạn, mở đôi mắt của
bạn và mở đôi tay của bạn để đón nhận Chúa. Bạn có thể giang đôi tay mình ra
như cử chỉ đón mời Chúa.
-
Vẫn ngắm nhìn Chúa trên Thánh Giá. Giờ đây chú ý lắng nghe Ngài đang nói với
bạn lời tha thứ từ Thánh Giá. Hãy để lời này từ từ thấm sâu vào lòng bạn.
Nhắm mắt lại bạn hãy nhẩm đi nhắc lại âm thầm lời này, như là Chúa đang cầu
nguyện riêng cho bạn:
Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ đang làm.
Bạn cảm nhận lời này như thế nào? Có điều gì làm bạn chú ý?
-
Qua lời tha thứ của Chúa, bạn suy gẫm và xác tín rằng, Chúa yêu thương bạn.
Không có gì lầm lỡ trong tâm hồn và trong con người bạn là không thể tha thứ
được. Bạn chỉ cần phải khiêm tốn sám hối và ăn năn với Chúa.
-
Để đi sâu hơn, bạn nhớ lại một lầm lỡ và tội lỗi của bản thân. Khiêm tốn và
thật tâm sám hối bạn nhẩm đi nhắc lại lời cầu nguyện với Cha trên trời và
với Chúa Giê-su:
Lạy Chúa, xin tha thứ cho con, vì con không biết việc con làm; vì con không
biết những hậu quả của việc con đã làm.
Mỗi lần nhẩm đi nhắc lại một lời cầu nguyện này. Bạn dừng lại trong thinh
lặng giây lát, và trong sâu thẳm của tâm hồn bạn hướng về Thiên Chúa từ nhân
để cầu xin lòng thương xót nhân hậu của Chúa.
-
Ngoài ra, bạn có thể tự hỏi, lúc này có ai là người có lỗi với tôi không?
Nếu có ai thì bạn mường tượng khuôn mặt của người đó, đặt họ trước Thánh Giá
Chúa. Bạn nhẩm đi nhắc lại lời cầu nguyện của Chúa Giê-su:
Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ đang làm.
Cuối cùng bạn xin Chúa giúp bạn mở lòng để tha thứ cho người có lỗi với bạn.
Kết thúc bài tập và phần suy niệm này, bạn có thể đọc Kinh Lạy Cha thật chú tâm.
Đặc biệt chú ý đến tinh thần tha thứ trong Kinh Lạy Cha.
Mong sao lòng nhân từ của Chúa và sự an ủi này giúp chúng ta mở cánh cửa, để
bước vào con đường hoán cải trở về với Chúa Ki-tô chịu đóng đinh trên Thánh Giá,
Đấng giàu lòng thương xót, như anh trộm lành bị đóng đinh và bị treo trên thập
giá đã hướng nhìn đến Chúa Ki-tô.
Tác giả:
Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
|