Thời
gian là những năm tháng của thập niên 40, không gian là một tỉnh lỵ nằm trên
đường số 5 giữa Thủ đô Hà Nội và cảng Hải Phòng.
Cả
tỉnh chỉ có một bác sĩ, một nhà thương nhỏ.
Nhà
thương được một ông y tá, một bà đỡ và vài nhân viên tạp dịch điều hành. Sáng
sớm mỗi ngày, bệnh nhân xếp hàng đợi lấy số thứ tự, cũng không đông, độ hai
chục người, với mấy loại bệnh thông thường như nhức đầu, tiêu chảy, ban sởi trẻ
em, ghẻ lở, bụng ỏng sán lãi.
Thuốc
men giản dị. Ghẻ lở được bôi với Bleu de Méthylène xanh lè cả chân cẳng. Nhức
đầu được lãnh dăm viên Optalidon, Aspirin Bayer, tiêu chảy có Bismuth,
Charcoal, nặng thì được vài viên Sulfaguanidine. Bệnh trầm trọng hơn thì bác sĩ
khám, nếu cần sẽ được chở về bệnh viện Phủ Doãn ở Hà Nội, có bác sĩ Tây, có
nhiều ông thầy dạy học. Nói là nặng chứ không phải là nhồi máu cơ tim, tai biến
mạch mãu não, kích tim, giỏi lắm là vài trường hợp uốn ván, có thai ngoài dạ
con, thương hàn, ngã nước.
Kháng
sinh chưa có ngoài thuốc Dagénan, được coi là thần dược, trị mọi bệnh nhiễm
trùng. Mà muốn có thuốc này, phải là dân nhà giàu, đến phòng mạch tư của bác
sĩ, xin toa ra nhà thuốc tây duy nhất ở tỉnh để mua.
Bệnh
nhận không đến nhà thương thì đến chẩn bệnh ở các vị đông ý, bốc thuốc bắc,
thuốc nam ở các tiệm cao đơn hoàn tán của “chú khách”, hoặc đi lễ xin thuốc
thần thuốc thánh, chữa theo kinh nghiệm dân gian “Đau bụng lấy bụng mà chườm”.
Phương
tiện trị liệu, định bệnh thô sơ, tử vong cao, sống tới tuổi 40 đã ăn mừng tứ
tuần đại khánh. Sự tiến bộ của văn minh y học trên thế giới chưa rọi tới mảnh
đất thuộc địa nghèo nàn. Những phong trào nhà ánh sáng, lưu thông cống rãnh, vệ
sinh thường thức chỉ mới manh nha.
Nhìn
ra các nước tiên tiến trên thế giới, từ đầu thế kỷ, y học đã liên tục đi những
bước dài để bảo vệ sức khỏe con người.
Một
trăm năm qua đã có nhiều phát minh, sáng kiến tuyệt hảo để chẩn bệnh, trị bệnh,
phòng bệnh. Tuổi thọ trung bình 45 tuổi ở năm 1900 đã được nâng lên 76,5 tuổi
vào cuối thế kỉ, cái gọi là thất thập cổ lai hy đã trở nên chuyện bình thường,
trường thọ đã là một trong nhiều quà tặng của nền y khoa tiến bộ trong thế kỉ
20 dành cho nhân loại.
Những
tử vong vì đẻ non, vì bệnh nan y, vì điều kiện sinh sống kém, dinh dưỡng không
cân bằng, vì những dịch truyền nhiễm đều đã được nhiều phần khắc phục.
Chúng
tôi xin cùng quý vị tìm hiểu lại một số những tiến bộ tuyệt hảo này, rồi đoán
vọng tương lai. Ta cùng ôn cố để tri tân.
1- Lãnh
vực phòng ngừa bệnh
Trước
thế kỉ 20, bệnh truyền nhiễm là một trong nhiều nguyên nhân gây ra số tử vong
cao cho con người. Lý do là vì chưa có kháng sinh, vaccin tiêm phòng, vệ sinh
cá nhân, nhà ở chưa được phổ biến, vi trùng tha hồ hoành hành tác hại.
Dịch
cúm Tây Ban Nha năm 1918 làm thiệt mạng hơn 20 triệu người trên toàn thế giới.
Bệnh
lao, bệnh đậu mùa, bệnh bại liệt trẻ em, bệnh bạch hầu, uốn ván tràn lan. Ngay
cả Tổng thống Hoa Kì Roosevelt Franklin cũng bị bại liệt vào tháng 8 năm 1921
khiến liệt nửa thân.
Sau
đó bệnh truyền nhiễm giảm bớt nhờ nhiều phương tiện, trong đó có tiêm chủng.
Khám
phá ra dự chủng ngừa dựa vào một nhận xét là, những nông trại vắt sữa bò, bị
lây bệnh đậu của bò thì không mắc bệnh đậu mùa nữa, do đó chích ngừa là để tạo ra
chất kháng thể chống lại sự xâm nhập vi khuẩn cùng loại.
Năm
1790, Edward Jenner, người Anh, là người đầu tiên cấy chất liệu từ vết đậu của
bò cho người để tạo tính miễn dịch, nhưng phải đợi tới thế kỷ 20 vaccin để
chủng phòng bệnh đậu mùa mới được hoàn thiện.
Trong
thế kỷ vừa qua, y khoa đã chế ra vaccin phòng bệnh lao BCG năm 1908, sốt vàng
da năm 1937, bại liệt trẻ em năm 1955, bệnh sởi năm 1962, thủy đậu năm 1975 và
nhiều loại thuốc ngừa các bệnh khác như bệnh quai bị, bạch hầu, cúm, viêm gan
các loại, thương hàn, dịch tả, ho gà…
Bệnh
đậu mùa, bệnh sởi đã được coi như bị xóa sổ trên thế giới, ngoại trừ một vài
địa phương nhỏ. Trong tương lai gần đây, sẽ có vaccin phòng ngừa sốt rét, và
phòng HIV/AIDS.
2- Thuốc
kháng sinh
Còn
nhớ lại những năm tản cư ở Đông Triều, Cổ Vịt, dân chúng cố kiếm mua mấy viên
Dagénan mang theo để chữa đủ bệnh nhiễm trùng. Đôi khi còn phải nhờ người vào
“thành” mua lậu cho mấy ống, vì thuốc mới quá hiếm. Viên Dagénan đã cứu sống
nhiều người trong giai đoạn đó.
Theo
định nghĩa, kháng sinh là chất do vi sinh vật tạo ra, có khả năng tiêu diệt hay
ngăn ngừa sự tăng trưởng của vi sinh vật khác như vi khuẩn, nấm độc. Nhà bác
học Pháp Louis Pasteur là người đầu tiên nhận ra đặc tính này.
Năm
1929, do sự tình cờ, Alexander Fleming tại bệnh viện St Mary Luân Đôn, thấy
rằng mốc của nấm Penicillium natatum tiết ra chất Penicillin có thể giết chết
được vi trùng. Nhưng ta phải đợi tới năm 1940, nhờ các nghiên cứu của
H.W.Florey và E.B.Chain, thuốc Penicillin mới được sản xuất đại quy mô để trị
bệnh.
Sự
khám phá ra thuốc Penicillin được coi như một thành quả lớn của thế kỉ 20.
Thuốc
trị vi trùng nhóm Sulfamid được bào chế năm 1932, Strepomycin trị lao năm 1943.
Ngày
nay, kháng sinh có rất nhiều loại, trị được nhiều bệnh nhiễm trùng khác nhau,
với cách dùng như uống, chích, bôi ngoài da. Nhưng vì con người lạm dụng thuốc
nên một số vi trùng trở nên nhờn mặt với vài loại kháng sinh.
3- Giải
pháp nối-ghép bộ phận cơ thể
Phương
pháp ghép bộ phận cơ thể hiện nay khá phổ thông và tiến bộ tới mức trước đây
không ai nghĩ tới. Các bác sĩ giải phẫu mổ lấy bộ phận người này ghép thay vào
bộ phận thiếu hoặc không hoạt động ở người khác, qua sự sang nhượng hay lấy từ
người sắp chết tặng. Cũng có thể tự ghép bộ phận như ghép da, ghép nối động
tĩnh mạch, dây thần kinh.
Truyền
máu cũng là một hình thức chuyển ghép tế bào, và đã được thực hiện từ thế kỉ 17
ở Châu Âu, nhưng có nhiều tai nạn chết người do phản ứng của máu người cho và
người nhận. Mãi tới năm 1900, việc truyền máu mới được an toàn nhờ nhà
bác học người Úc, Karl Landsteiner, tìm ra các loại máu A, B, O của con người.
Thận
nhân tạo để lọc máu được sáng chế năm 1913.
Trường
hợp ghép chuyển thận thành công đầu tiên vào năm 1954 được hai bác sĩ
J.Hartwell Harrison và Joseph Murray, ở Boston, Hoa Kỳ thực hiện.
Năm
1963 các phẫu thuật gia bắt đầu thử thay phổi, thay gan, và hiện nay các sự
thay ghép này đã được áp dụng.
Bác
sĩ Christian N.Barnad, Nam Phi, giải phẫu thay tim đầu tiên vào năm 1967.
Một
trở ngại thường gặp trong việc thay ghép là cơ thể người nhận đôi khi chối từ,
tấn công bộ phận cho vì những bất đồng cấu tạo, sinh lý.
Từ
năm 1970, việc chuyển ghép bộ phận cơ thể được thực hiện thường xuyên, rộng rãi
nhờ thuốc Cyclosporin vô hiệu hóa việc đào thải mảnh ghép.
Hiện
nay, mỗi năm riêng tại Hoa Kỳ có tới gần 3000 con tim được thay thế.
Tim
nhân tạo cũng đã và đang được thử nghiệm, nhất là để tạm thời thay thế tim hư,
chờ có tim cho.
Giác
mạc mắt được thay ghép ít nhất trên 40,000 lần mỗi năm tại Hoa Kỳ do người sắp
chết tặng. Vì số tặng không đủ, các khoa học gia, đặc biệt là bác sĩ May
Griffith, đang nuôi giác mạc trong phòng thí nghiệm.
Xin
kể thêm là phổi sắt (máy thở) được dùng đầu tiên năm 1927 để hỗ trợ hô hấp cho
người bị tê liệt mà phổi không tự thở được.
Và
việc thay khớp xương hông nhân tạo được bắt đầu vào năm 1938.
4- Dược
phẩm quan trọng
Thời
cổ xưa, người ta coi bệnh tâm thần là do ma quỷ nhập hay là do thần thánh,
thượng đế trừng phạt. Bệnh nhân bị cô lập, bỏ tù, trói cột, hành hạ, đôi khi bị
thiêu sống. Cho tới thế kỷ 19, bọn con buôn còn mang triển lãm, để lấy tiền,
những người điên, cười nói, khóc lóc vô cớ, hành động không kiểm soát.
Khi
bác sĩ Philippe Pinel, tổ sư ngành tâm thần học, cởi thả những người bị điên
loạn thì cấp trên của ông ta bảo rằng anh điên hay sao mà thả họ ra. Pinel cho
là cần phải có thái độ nhân đạo, hỗ trợ với người bị bệnh tâm thần.
Thuốc
trị loạn tâm thần hưng trầm cảm Lithium được tìm ra năm 1949, và hiện giờ vẫn
còn là thuốc căn bản trị bệnh này. Năm 1950, thuốc Chlorpromazin trị loạn tâm
trí được bào chế.
Cho
tới nay, đã có nhiều dược phẩm cũng như phương tiện khoa học để trị đủ loại
bệnh tâm thần mỗi ngày mỗi tăng của thời đại.
Cách
đây trên nửa thế kỉ, nếu có phương tiện công hiệu để trị bệnh cao huyết áp,
bệnh tim mạch như ngày nay thì có lẽ Tổng thống Hoa Kì F.D.Roosevelt không bị
chết vì các chứng xuất huyết trong bệnh cao huyết áp và suy tim của ông. Thực
vậy, trong lãnh vực này, đã có những tiến bộ vượt bậc về các phương thức điều
trị.
Ngoài
dược phẩm có giá trị cao, phẫu thuật nối động mạch cơ tim được bác sĩ DeBakey
thực hiện vào thập niên 60, rồi đến sự thông động mạch vành tắc nghẽn bằng bơm
bóng, bằng tia Laser, bằng lưỡi dao tí hon xoay tròn mới đây, tất cả đã trở nên
rất phổ biến.
Đồng
thời sự hiểu biết tường tận về ích lợi của việc tập luyện cơ thể, cách thức giữ
gìn ăn uống quân bình, về nguy cơ gây bệnh của rượu, thuốc lá, cholesterol đã
đóng góp rất nhiều vào việc ngừa, chữa bệnh tim mạch các loại, và hạ thấp mức
tử vong.
Năm
1921, chất Insulin được Frederick Banting và Charles Best, Đại hoc Toronto, lấy
từ tụy tạng chó là sự kiện quan trọng trong lịch sử y khoa học.
Insulin
là kích thích tố duy nhất làm giảm đường trong máu và được tụy tạng tiết ra khi
đường tăng cao, như là sau bữa ăn hay khi bị căng thẳng tâm thần. Khi đường
trong máu lên quá cao, bệnh nhân bị hôn mê, có nguy cơ mạng vong.
Mặc
dù không trị dứt được bệnh tiểu đường nhưng Insulin là một loại thuốc tối cần
thiết cho người mắc bệnh này và Insulin đã giảm thiểu tử vong do hôn mê vì
lượng đường cao cũng như nhiều biến chứng trầm trọng về mắt, thận, tim.
Vào
thập niên 60, thuốc viên ngừa thai (the Pill) gồm kích thích tố Estrogen và
Progesteron được tung ra thị trường, cùng lúc với phong trào đòi nam nữ bình
quyền, đã giúp nữ giới tận hưởng thú vui ân ái mà không lo ngại mang thai.
Cũng
trong phạm vi thai nghén, năm 1978, em bé ống nghiệm đầu tiên Louise Brown ra
đời ở Luân Đôn, và tới nay, riêng tại Mỹ, Louise có ít nhất trên 100.000 người
em trai gái cùng được thụ thai trong phòng thí nghiệm, giữa những ống thủy
tinh, thay vì trên giường.
Rồi
đây, hành động ái ân biết đâu chẳng chỉ là phương tiện để thỏa mãn thú vui xác
thịt chứ không cần thiết cho việc nối dõi tông đường.
5- Các
phương pháp cơ khí trị liệu, tìm bệnh
Máy
điện tâm đồ, đo hoạt động điện năng của cơ tim (Electrocardiograph), được dùng
đầu tiên vào năm 1903 để khám phá chứng huyết khối động mạch vành, rối loạn
nhịp tim, rối loạn cơ tim.
Máy
điều hòa nhịp tim (pace maker) được hoàn tất năm 1957; mười năm sau chụp X
quang tuyến vú được sử dụng để tìm kiếm ung thư cơ quan này.
Thực
ra quang tuyến X được bác học người Đức Wilhelm Roentgen phát giác ra công dụng
từ năm 1895, nhưng phải tới năm 1920, tia X mới áp dụng rộng rãi. Rồi những năm
gần đây, người ta có thể chụp hình từng bộ phận cơ thể dưới nhiều khía cạnh
khác nhau (cắt lớp) với CT scan, PET scan, MRI.
Về
con mắt, vào những thập niên cuối của thế kỉ đã có một tiến bộ tuyệt hảo trong
việc chữa các tật cận thị, viễn thị, bong tróc võng mạc bằng tia Laser, giúp
cho nhiều người lấy lại được thị lực mà không cần mang kính điều chỉnh.
Tia
Laser còn được sử dụng vào nhiều giải phẫu trị liệu khác, vừa ít đau vừa thu
ngắn thời gian trên bàn mổ mà lại mau phục hồi.
6- Nhìn
về tương lai
Còn
nhiều thành quả khác có thể coi là ngoạn mục, cổ kim không ai nghĩ tới , của
nền y khoa học trong thế kỉ vừa qua, những thành quả đã giúp con người sống lâu
hơn, sống khỏe mạnh tích cực hơn.
Ngoài
ra, cũng có nhiều phát minh, sáng kiến được mạnh nha nhưng có nhiều hứa hẹn
thành công để hiểu rõ hơn nguyên nhân chính của bệnh tật, từ đó đưa ra phương
thức điều trị.
Người
ta nói tới sự thiết lập Dự Án Bộ Gen Con Người với đầy đủ mã số thông tin. Gen
là yếu tố di truyền căn bản, mà khi bị đột biến sẽ là nguyên nhân gây nhiều
bệnh tật cũng như đẩy nhanh diễn tiến lão suy.
Trong
tương lai, sẽ trị bệnh bằng cách sắp xếp lại cấu trúc Gen, và mỗi người sẽ có
một Chip AND với toàn bộ danh mục Gen lành, Gen bệnh.
Sẽ
không còn nối tắt động mạch vành bị tắc nghẽn, mà có phương pháp kích thích cơ
tim tạo ra động mạch vành mới thay thế cho động mạch nghẽn.
Bằng
kỹ thuật sinh sản vô tính, người ta đã tạo ra một con cừu do sự phối hợp của tế
bào thường với trứng không nhân của con cừu cái khiến nhiều nhà tôn giáo, đạo
đức đã cau mặt e ngại một ngày nào đó con người cũng được sinh sản vô tính.
Sẽ
có thuốc chặn sự nuôi dưỡng, tăng trưởng tế bào ung thư khiến chúng bị hủy diệt
hay gửi những “siêu trùng Kinh Kha” đột nhập tế bào ung thư để tiêu hủy.
Và
bộ phận cơ thể sẽ được cấu tạo từ những tế bào gốc (stem cells) để thay thế cho
trái tim già nua, lá gan suy yếu.
Kết luận
Sáng
hôm đó, mở Internet coi tin tức, hoa hậu Vũ Trụ Ngân Giang thấy một quảng cáo
của Viện Sinh Bào BAGIAI, Inc như sau:
“Các
nhà Bác Vật của Viện nghiên cứu chúng tôi vừa mới hoàn tất một CHIP-DNA có 64
genes được xếp theo bộ tế bào thượng hạng số 76/69/35 bảo đảm không mắc mười ba
loại bệnh ung thư, không bị dị ứng với hải sản, không bị nhồi máu cơ tim, phong
tình nhập cốt và có thương số trí tuệ 109.
Quý
vị có thể đặt mua CHIP-DNA này ngay từ bây giờ, bán “sêu” tới hết ngày
3/5/2035, và nhớ dùng CHIP này một tuần lễ trước ngày qúy bà dự trù có thai để
có một đứa con lành mạnh, nhiều bản lãnh, bảo đảm sẽ làm lãnh tụ ở tuổi 36.
Mua
trước ngày kể trên, quý vị sẽ được bổn Viện Trưởng thân thương tặng một ký lô
xà bông giặt quần áo VŨ TẠO số 1 làm bằng nhiên liệu nhập, một phiếu miễn phí
làm niềng răng bằng thủy ngân tại nhà trồng răng MINH SINH Hàng Bông Thợ
Nhuộm”.
Người
Đẹp đưa tay lấy cây bút máy nguyên tử cài trên vành tai, ký chi phiếu trên màn
ảnh máy vi tính, trả tiền, mua liền một lúc hai CHIP, tự nhủ: một trăm hai mươi
sáu ngàn tiền đô, mai đây sanh con trai cho làm Tổng Thống, con gái nối ngôi
Hoa Hậu, rẻ chán!!!.
Bác
sĩ Nguyễn Ý Đức