Tôbia
Chương:
01 02
03 04
05 06
07 08
09 10
11 12
13 14
Chương
1
1 Đây là sách truyện ông Tô-bít,
con ông Tô-bi-ên, cháu ông Kha-nan-ên, chắt ông A-đu-ên, cháu ba đời ông
Ga-ba-ên, cháu bốn đời ông Ra-pha-en, cháu năm đời ông Ra-gu-ên. Ông
thuộc dòng dõi ông A-xi-ên, chi tộc Náp-ta-li.2 Vào thời
San-ma-ne-xe làm vua Át-sua, ông bị đày khỏi Tít-be, một thành ở miền
nam Ky-đi-ô, thuộc Náp-ta-li, trên miền Ga-li-lê Thượng, bên trên
Khát-xo nằm lui vào bên trong, hướng mặt trời lặn, ở phía bắc
Phô-go.
Ông Tô-bít bị lưu đày
3 Tôi là Tô-bít, tôi đã từng ăn ở
theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi. Tôi cũng đã từng rộng tay
bố thí cho anh em và đồng bào tôi, những người cùng đi đày với tôi qua
Ni-ni-vê, ở xứ Át-sua.4 Khi tôi còn ở trong xứ tôi là đất
Ít-ra-en, và khi tôi còn trẻ, toàn bộ chi tộc của cha tôi là Náp-ta-li
đã ly khai với nhà Đa-vít, tổ tiên tôi, và thành đô Giê-ru-sa-lem. Trong
tất cả các chi tộc Ít-ra-en, thành này đã được chọn làm nơi cho mọi chi
tộc Ít-ra-en đến tế lễ; và tại đây, Đền Thờ Thiên Chúa ngự đã được thánh
hiến và xây cất cho mọi thế hệ mai sau.5 Còn tất cả anh em
tôi, cũng như nhà Náp-ta-li cha tôi, thì trên mọi núi đồi miền Ga-li-lê,
lại cúng tế con bê mà Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, đã làm ra tại
Đan.
6 Chỉ có mình tôi đã nhiều lần trẩy lên
Giê-ru-sa-lem vào các dịp lễ, theo những điều đã chép trong chiếu chỉ
ngàn đời được ban truyền trong toàn cõi Ít-ra-en. Các hoa quả đầu mùa và
những con vật đầu lòng, cũng như một phần mười đàn vật và lông những con
cừu được xén lần đầu tiên, tôi đều mau mắn đưa tới
Giê-ru-sa-lem.7 Tôi dâng các thứ đó cho các thầy tư tế, con
cái ông A-ha-ron, để lo việc tế lễ; còn một phần mười lúa miến, rượu
nho, ô-liu, thạch lựu, vả cùng những trái cây còn lại, thì dâng cho con
cái ông Lê-vi đang phục vụ tại Giê-ru-sa-lem. Phần mười thứ hai, tôi nộp
bằng tiền mặt trong sáu năm liền để làm tiền tiêu dùng hằng năm tại
Giê-ru-sa-lem.8 Tiền đó, tôi tặng cô nhi, quả phụ và những
người ngoại kiều sống giữa con cái Ít-ra-en; ba năm một lần, tôi đem đến
tặng họ. Chúng tôi dùng số tiền đó mà ăn tiêu theo chiếu chỉ được ban
truyền trong luật Mô-sê liên quan đến những việc ấy, và theo các huấn
lệnh của bà Đơ-vô-ra, thân mẫu cha ông chúng tôi là Kha-nan-ên, vì cha
tôi chết để lại tôi mồ côi.9 Đến tuổi thành nhân, tôi lấy một
người thuộc dòng dõi cha ông chúng tôi làm vợ; nhờ nàng, tôi được một
đứa con trai và đặt tên cho nó là Tô-bi-a.
10 Thời lưu
đày qua Át-sua, tôi cũng bị đi đày và đã tới Ni-ni-vê. Mọi anh em và
những người cùng một dòng máu với tôi đều đã dùng thức ăn của dân
ngoại.11 Còn tôi, tôi vẫn kiêng không dùng thức ăn của dân
ngoại.12 Và bởi vì tôi hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa
tôi,13 nên Người là Đấng Tối Cao đã làm cho tôi được vừa lòng
đẹp mắt vua San-ma-ne-xe. Tôi đã trở thành người mua sắm cho vua tất cả
những gì vua cần dùng.14 Vì vậy, tôi thường hay qua xứ Mê-đi
mua sắm cho vua, cho đến ngày vua băng hà; và tôi đã gởi ông Ga-ba-ên,
là anh em ông Gáp-ri, tại xứ Mê-đi, những túi bạc tính tất cả là ba trăm
ký.
15 Khi vua San-ma-ne-xe băng hà, thái tử
Xan-khê-ríp lên ngôi kế vị, thì các đường Mê-đi bị cắt đứt, và tôi không
thể qua Mê-đi được nữa.16 Dưới thời vua San-ma-ne-se, tôi đã
rộng tay bố thí cho các anh em cùng một dòng máu với tôi.17
Cơm bánh của tôi, tôi cho người đói khát; quần áo của tôi, tôi cho kẻ
trần truồng; nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra
phía sau tường thành Ni-ni-vê, thì tôi chôn cất người đó.18
Nếu có ai bị vua Xan-khê-ríp giết chết trên đường vua trốn khỏi Giu-đê
trở về, trong những ngày Vua Trời trừng phạt vua về những lời phạm
thượng đã thốt ra, thì tôi cũng chôn cất. Quả vậy, trong cơn phẫn nộ,
vua đã giết chết nhiều người trong số con cái Ít-ra-en, còn tôi cứ đi
lấy trộm xác họ mà chôn cất. Vua Xan-khê-ríp đi tìm những xác đó mà
không thấy.19 Một người dân thành Ni-ni-vê tố giác với vua
rằng chính tôi là người chôn cất họ, nên tôi lẩn tránh. Khi được biết là
vua đã rõ chuyện tôi và đang cho người lùng bắt để giết tôi, tôi sợ hãi
và trốn thoát.20 Thế là bao nhiêu của cải tôi có đều bị tịch
thu, không còn lại một chút gì mà không bị sung vào kho vua, trừ An-na
vợ tôi và Tô-bi-a con trai tôi.
21 Không đầy bốn mươi
ngày sau, hai người con trai của vua giết chết vua, rồi bỏ trốn lên núi
A-ra-rát. Hoàng tử Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị vua cha, và đặt
A-khi-ca, con trai của A-na-ên, người anh em tôi, lên trông coi việc tài
chính cả nước cùng nắm quyền điều khiển toàn bộ công việc quản
trị.22 Bấy giờ, A-khi-ca bênh vực tôi và tôi đã trở xuống
Ni-ni-vê. Quả vậy, dưới triều Xan-khê-ríp, vua Át-sua, A-khi-ca đã từng
làm quan đại chước tửu, chưởng ấn, người trông coi việc quản trị và tài
chính. Vua Ê-xa-khát-đôn lại đặt A-khi-ca giữ các chức vụ một lần nữa:
A-khi-ca là cháu trai và cùng một dòng họ với tôi.
1
Đây là sách truyện ông Tô-bít, con ông Tô-bi-ên, cháu ông Kha-nan-ên,
chắt ông A-đu-ên, cháu ba đời ông Ga-ba-ên, cháu bốn đời ông Ra-pha-en,
cháu năm đời ông Ra-gu-ên. Ông thuộc dòng dõi ông A-xi-ên, chi tộc
Náp-ta-li.2 Vào thời San-ma-ne-xe làm vua Át-sua, ông bị đày
khỏi Tít-be, một thành ở miền nam Ky-đi-ô, thuộc Náp-ta-li, trên miền
Ga-li-lê Thượng, bên trên Khát-xo nằm lui vào bên trong, hướng mặt trời
lặn, ở phía bắc Phô-go.
Ông Tô-bít bị lưu đày
3 Tôi là Tô-bít, tôi đã từng ăn ở
theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi. Tôi cũng đã từng rộng tay
bố thí cho anh em và đồng bào tôi, những người cùng đi đày với tôi qua
Ni-ni-vê, ở xứ Át-sua.4 Khi tôi còn ở trong xứ tôi là đất
Ít-ra-en, và khi tôi còn trẻ, toàn bộ chi tộc của cha tôi là Náp-ta-li
đã ly khai với nhà Đa-vít, tổ tiên tôi, và thành đô Giê-ru-sa-lem. Trong
tất cả các chi tộc Ít-ra-en, thành này đã được chọn làm nơi cho mọi chi
tộc Ít-ra-en đến tế lễ; và tại đây, Đền Thờ Thiên Chúa ngự đã được thánh
hiến và xây cất cho mọi thế hệ mai sau.5 Còn tất cả anh em
tôi, cũng như nhà Náp-ta-li cha tôi, thì trên mọi núi đồi miền Ga-li-lê,
lại cúng tế con bê mà Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, đã làm ra tại
Đan.
6 Chỉ có mình tôi đã nhiều lần trẩy lên
Giê-ru-sa-lem vào các dịp lễ, theo những điều đã chép trong chiếu chỉ
ngàn đời được ban truyền trong toàn cõi Ít-ra-en. Các hoa quả đầu mùa và
những con vật đầu lòng, cũng như một phần mười đàn vật và lông những con
cừu được xén lần đầu tiên, tôi đều mau mắn đưa tới
Giê-ru-sa-lem.7 Tôi dâng các thứ đó cho các thầy tư tế, con
cái ông A-ha-ron, để lo việc tế lễ; còn một phần mười lúa miến, rượu
nho, ô-liu, thạch lựu, vả cùng những trái cây còn lại, thì dâng cho con
cái ông Lê-vi đang phục vụ tại Giê-ru-sa-lem. Phần mười thứ hai, tôi nộp
bằng tiền mặt trong sáu năm liền để làm tiền tiêu dùng hằng năm tại
Giê-ru-sa-lem.8 Tiền đó, tôi tặng cô nhi, quả phụ và những
người ngoại kiều sống giữa con cái Ít-ra-en; ba năm một lần, tôi đem đến
tặng họ. Chúng tôi dùng số tiền đó mà ăn tiêu theo chiếu chỉ được ban
truyền trong luật Mô-sê liên quan đến những việc ấy, và theo các huấn
lệnh của bà Đơ-vô-ra, thân mẫu cha ông chúng tôi là Kha-nan-ên, vì cha
tôi chết để lại tôi mồ côi.9 Đến tuổi thành nhân, tôi lấy một
người thuộc dòng dõi cha ông chúng tôi làm vợ; nhờ nàng, tôi được một
đứa con trai và đặt tên cho nó là Tô-bi-a.
10 Thời lưu
đày qua Át-sua, tôi cũng bị đi đày và đã tới Ni-ni-vê. Mọi anh em và
những người cùng một dòng máu với tôi đều đã dùng thức ăn của dân
ngoại.11 Còn tôi, tôi vẫn kiêng không dùng thức ăn của dân
ngoại.12 Và bởi vì tôi hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa
tôi,13 nên Người là Đấng Tối Cao đã làm cho tôi được vừa lòng
đẹp mắt vua San-ma-ne-xe. Tôi đã trở thành người mua sắm cho vua tất cả
những gì vua cần dùng.14 Vì vậy, tôi thường hay qua xứ Mê-đi
mua sắm cho vua, cho đến ngày vua băng hà; và tôi đã gởi ông Ga-ba-ên,
là anh em ông Gáp-ri, tại xứ Mê-đi, những túi bạc tính tất cả là ba trăm
ký.
15 Khi vua San-ma-ne-xe băng hà, thái tử
Xan-khê-ríp lên ngôi kế vị, thì các đường Mê-đi bị cắt đứt, và tôi không
thể qua Mê-đi được nữa.16 Dưới thời vua San-ma-ne-se, tôi đã
rộng tay bố thí cho các anh em cùng một dòng máu với tôi.17
Cơm bánh của tôi, tôi cho người đói khát; quần áo của tôi, tôi cho kẻ
trần truồng; nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra
phía sau tường thành Ni-ni-vê, thì tôi chôn cất người đó.18
Nếu có ai bị vua Xan-khê-ríp giết chết trên đường vua trốn khỏi Giu-đê
trở về, trong những ngày Vua Trời trừng phạt vua về những lời phạm
thượng đã thốt ra, thì tôi cũng chôn cất. Quả vậy, trong cơn phẫn nộ,
vua đã giết chết nhiều người trong số con cái Ít-ra-en, còn tôi cứ đi
lấy trộm xác họ mà chôn cất. Vua Xan-khê-ríp đi tìm những xác đó mà
không thấy.19 Một người dân thành Ni-ni-vê tố giác với vua
rằng chính tôi là người chôn cất họ, nên tôi lẩn tránh. Khi được biết là
vua đã rõ chuyện tôi và đang cho người lùng bắt để giết tôi, tôi sợ hãi
và trốn thoát.20 Thế là bao nhiêu của cải tôi có đều bị tịch
thu, không còn lại một chút gì mà không bị sung vào kho vua, trừ An-na
vợ tôi và Tô-bi-a con trai tôi.
21 Không đầy bốn mươi
ngày sau, hai người con trai của vua giết chết vua, rồi bỏ trốn lên núi
A-ra-rát. Hoàng tử Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị vua cha, và đặt
A-khi-ca, con trai của A-na-ên, người anh em tôi, lên trông coi việc tài
chính cả nước cùng nắm quyền điều khiển toàn bộ công việc quản
trị.22 Bấy giờ, A-khi-ca bênh vực tôi và tôi đã trở xuống
Ni-ni-vê. Quả vậy, dưới triều Xan-khê-ríp, vua Át-sua, A-khi-ca đã từng
làm quan đại chước tửu, chưởng ấn, người trông coi việc quản trị và tài
chính. Vua Ê-xa-khát-đôn lại đặt A-khi-ca giữ các chức vụ một lần nữa:
A-khi-ca là cháu trai và cùng một dòng họ với tôi.