“Hỡi nhà vua Philippe, vua hãy nhớ rằng: vua cũng chỉ là con người!”
“Người đã được dựng nên từ bụi đất; người sẽ trở về bụi đất!”
Mới đây, ngày 16-10-2008, trên U.S.News có đăng bài của ký gỉa Justin Ewers nói về việc hiện nay người ta đặt lại vấn đề làm sao con tàu Titanic “không thể chìm”, thế mà lại chìm ngay trong chuyến hải hành đầu tiên.
‘Tàu Titanic được đóng rất chắc chắn và không bao giờ có thể chìm được’. Những người chủ trương đóng con tàu này đã hiên ngang nói như vậy và đặt tên con tàu là ‘Titanic.’
Vào tháng tư, năm 1912, tàu Titanic rời bến cảng Queenstown (Anh Quốc) để đi New York, chở theo hơn 2,200 hành khách và thủy thủ đoàn, trong chuyến hải hành đầu tiên. Hành khách đi trên chuyến tàu đều rất vui mừng phấn khởi và hãnh diện vì được đi chuyến hải hành đầu tiên của con tàu tối tân và lớn nhất thời đó, cùng với niềm tin tưởng chắc chắn là con tàu “không thể nào chìm được”. Có người còn cao hứng tuyên bố Trời (nếu có) cũng chẳng đánh chìm nó được.
Chữ Titanic là lấy từ chữ Titan, tên một ông thần khổng lồ, sức mạnh vô song (trong truyện thần thoại Hy lạp). Người ta đặt tên chiếc tàu như vậy để thách đố mọi nguy hiểm trên biển cả.
Con tàu “không thể chìm được” này đã thực sự chìm khi đụng vào tảng băng vào đêm 14-4-1912. Có thể là vì thuyền trưởng và đoàn điều hành đã quá tự phụ vào con tàu ‘không thể chìm được,’ nên đã không đề phòng đúng luật hải hành.
Con tàu đã chìm sâu xuống lòng biển cả đem theo khoảng 1,500 nhân mạng cùng chìm xuống biển sâu! (Xin xem những chi tiết đặc biệt về tàu Titanic vào cuối bài này)
Qua dòng lịch sử nhân loại, vẫn có những con người khi làm được điều gì thành công, hoặc những kẻ độc tài đang nắm giữ quyền hành, thường kiêu căng tự phụ “coi trời bằng vung”, và vì quá ‘tự cao, tự đại’ nên dễ ‘mù quáng,’ nhận sâu chính mình vào thất bại và kéo theo nhiều người khác phải chết thảm!
Theo Kinh Thánh Cựu Ước, sách Khởi nguyên, con người được Thiên Chúa dựng nên ‘theo hình ảnh Chúa’ trường sinh bất tử, và trổi vượt hơn mọi loài Chúa đã dựng nên: có trí thông minh, biết suy luận và có tự do. Nhưng “Con Người” đã không biết khiêm tốn để cảm tạ hồng ân Chúa ban; ngược lại, lại kiêu căng tự phụ ‘muốn nên như Ông Trời’ để bá chủ thế giới và thống trị người khác.
Trong sách Khởi nguyên, có kể câu chuyện tháp Babel (Khởi nguyên, chương 11). Khi con người đã sinh sản nhiều trên mặt đất và đã ‘tiến bộ’ liền nghĩ ra việc xây ‘cây tháp cao, cao tới trời’ để khoe khoang và tự phụ về tài trí của mình. Nhưng rồi chẳng ai bảo được ai, nên ‘không cùng một tiếng nói nữa’, không hiểu nhau nữa, trở nên ‘lộn xộn’ và chẳng ai chịu nghe ai, thế là tan nát công trình và phân tán mỗi người mỗi ngả.
Cũng vì tôi kiêu ngạo, ghen ghét, mà Cain đã giết chính em ruột mình là Abel ( Khởi nguyên, chương 4) và từ đó con người cứ mãi mãi trở nên ‘thù địch của con người’ và chiến tranh cứ mãi mãi tiếp diễn ở khắp nơi, ngay trong cùng một gia đình, bộ tộc, quốc gia.
Theo dòng lịch sử nhân loại, đã có bao ‘anh hùng hảo hớn’ chỉ vì kiêu căng tự phụ, nuôi tham vọng bá chủ thế giới mà đã gây ra những cuộc chiến tranh tiêu diệt bao sinh mạng. Đan cử như Alexandre The Great (khoảng 356-323BC), Attila (khoảng 395-453), Genghiskhan (khoảng 1162-1227), Napoleon Bonaparte I (1769-1821), chưa kể đến Tần Thủy Hoàng và các hoàng đế Roma. Tất cả cũng đã trở về với cát bụi, để lại bao thảm khốc cho nhân loại.
Lịch sử luôn luôn tái diễn. Tuy nhiên, những kẻ kiêu căng tự phụ, độc tài không bao giờ có tinh thần khiêm tốn để học bài học lịch sử chua cay của những người đi trước; nhưng cứ quyết tâm thực hiện ý định mù quáng của mình và kéo theo bao tai ương cho nhân loại.
Xem ra con người, càng văn minh tiến bộ lại càng có thêm nhiều ‘Cain’ của thời đại, không phải chỉ giết một người, nhưng giết hại bao người. Càng văn minh tiến bộ, con người càng chế ra những vũ khí giết người càng khủng khiếp.
Chỉ vì tham vọng muốn bá chủ Âu Châu và thiết lập thuyết ‘Quốc Xã Đức’ mà Hitler (1889-1945) và đồ đệ đã gây ra cuộc chiến tranh từ 1939-1945 đã giết hại hàng triệu sinh linh , tàn phá bao công trình kiến trúc ở Âu Châu. Đồng thời những nhà tài phiệt ‘Nhật Bản’ cũng tung quân đi xâm chiếm các nước lân bang với mộng bá chủ Đông Nam Á và cũng đã giết hại bao nhiêu triệu người dân lương thiện ở các nước vùng Đông Nam Á, và gây ra bao khốn khổ cho những người còn sống sót.
Rồi thuyết Cộng sản vô thần, thuyết triết lý Hiện sinh. Trước hết họ ‘giết’ Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã chết rồi!” Con người là Chúa của con người, cùng nhau đoàn kết xây tháp Babel, xây ‘Thiên Đàng trần gian,’ nhưng rồi vì kiêu ngạo, không ai làm chủ được ai, con người lại chia rẽ: “Tha nhân là hỏa ngục!” Thế là tha hồ giết nhau để tranh dành quyền lợi, vì còn ‘Ông Trời’ đâu mà thưởng phạt. Lenin, rồi Stalin, Mao Trạch Đông… cứ quyết tâm xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản Vô thần, với bất cứ giá nào, mà đã giết bao nhiêu triệu người dân lành ở Liên xô, Trung Cộng, Việt nam, Kampuchia.
Sau năm 1975, trong các cuộc họp phường, khóm, trong các trại tù ‘cải tạo’, những cán bộ cộng sản cứ nhất định nói rằng chủ nghĩa xã hội là nhất rồi, không còn có chế độ nào có thể thay thế được, và vì thế sẽ trường tồn mãi mãi trong lịch sử để xây dựng một xã hội không còn giai cấp, đầy đủ của cải, mọi người sống trong hoà bình và tràn ngập hạnh phúc; đó là Thiên đàng trần gian; nhưng rồi ‘ngọn tháp’ đã xụp đổ vào thập niên 1990 .Tượng Lenin, Stalin đã bị lật đổ ngay tại quê hương của các ông tổ Cộng Sản Vô Thần; thành phố Leningrad đã được lấy lại tên cũ là Saint Petersburg (1991); bức tường ô nhục Bá Linh cũng sụp đổ theo cùng với chế độ. Rất tiếc những nhà lãnh đạo ở Trung Công, Bắc Hàn, Việt Nam vẫn còn khư khư nắm giữ chế độ đó để bảo vệ quyền hành, không kể đến bao nhiêu con người của dân tộc mình phải sống khổ đau, nghèo đói, thiếu tự do, nhân quyền bị chà đạp, và dân tộc trở nên chậm tiến, lạc hậu, so với các dân tộc chung quanh. Hãy so sánh đời sống của nhân dân ở Đại Hàn và Bắc hàn, chẳng hạn, thì thấy rõ ngay!
Khi còn đang nắm quyền hành, người ta luôn cao ngạo, cứ tưởng là mình cứ oai quyền mãi mãi, ‘trường sinh bất tử,’ mà quên rằng bao nhiêu những nhà cai trị độc tài ‘trong lịch sử nhân loại’ đã qua đi, và đã trở về với cát bụi, chỉ còn để lại những oán hận của con người.
Vì thế trong lịch sử cổ Hy lạp, có câu chuyện vua Philippe thành Macedoine (khoảng 382-336 BC) (thân phụ của Alexandre The Great) sai một người hầu cận cứ mỗi buổi sáng, đánh thức vua dậy và nói: “Hỡi vua Philippe, vua hãy nhớ rằng vua cũng chỉ là con người!” (Con người thì có lúc sẽ chết!). Ông Diogene (Sinope) (Khoảng 412-323 BC), nhà hiền triết Hy lạp thường sống trong một cái thùng, trước cửa đi ra đi vào có treo một bảng viết “Ở đây bán sự khôn ngoan!” Ai đến hỏi, thì Ông trả lời: “Trong mọi sự, hãy nhớ đến lúc tận cùng!”.
Thánh Ignatius (50-107), Giám mục thành Antioch, nói: Có hai điều chắc chắn; đó là bạn sẽ chết và khi chết bạn chẳng mang theo được cái gì cả (nhưng sẽ để lại ‘tiếng tốt’ hoặc ‘tiếng xấu’ do những việc đã làm khi còn sống). Còn Thánh Phanxicô khó nghèo (1182-1226) nói: “Khi ta chết, ta chẳng đem theo được gì cả, trừ những phần thưởng do những việc bác ái, từ thiện mà ta đã làm cho những người nghèo khó khi chúng ta còn sống ở trần gian!”
Trong Kinh Thánh Cựu ứơc, Thiên Chúa nói với ông Adong: “Hỡi ‘người,’ hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về bụi tro.” (Khởi nguyên 3, 19). Trong mỗi mùa Chay Thánh, Giáo hội cũng nhắc nhở các tín hữu điều đó khi lên nhận xức tro. Nhắc như vậy không phải để chúng ta ‘bi quan yếm thế’, chán đời, thụ động; nhưng chỉ để nhắc nhở chúng ta hãy sống khiêm tốn, hãy sống cuộc đời cho ý nghĩa. Hãy yêu thương nhau như anh chị em trong gia đình nhân loại, con một Chúa là Cha trên trời, và giúp nhau sống hạnh phúc. Không bi quan yếm thế, nhưng luôn sống lạc quan từng giây phút trong cuộc sống, dù gặp hoàn cảnh nào, trong niềm tin tưởng phó thác mọi sự trong tay Chúa là Cha yêu thương. Vì thế Thánh Phaolô đã bảo chúng ta: “Anh em hãy vui sống trong Chúa… Sống hoà thuận với mọi người… Anh em đừng quá lo lắng… Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy dâng lời khẩn nguyện, tạ ơn Chúa và trình bày với Chúa mọi điều anh em muốn xin; và bình an của Chúa , bình an vượt trên hết mọi sự hiểu biết, sẽ giữ lòng trí anh em được kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô.” (Philipphê 4,4…)
Chúng ta hãy cùng với Mẹ Maria hát “Bài Ca Cảm Tạ” (Magnificat), xin Chúa cho chúng ta luôn biết cảm tạ Chúa vì những hồng ân Chúa đã ban cho chúng ta; xin cho chúng ta luôn biết sống khiêm tốn, hoà hợp, yêu thương nhau và chung tay xây dựng hoà bình khắp nơi, trong gia đình, khu xóm, sở làm và trên toàn thế giới.
GHI CHÚ: Một số chi tiết về chiếc tàu TITANIC.
Đã có nhiều bài báo và sách viết về chiếc Tàu Titanic; kể cả hai cuốn phim nổi tiếng :“A Night to Remember” (1958) và “Titanic” (1997). Hai bài báo báo mới đây viết về chiếc tàu này là “The Secrets of How the Titanic Sank” do Justin Ewers viết ngày 25-9-2008 (nói về những nhà chuyên môn có ý kiến đặt lại vấn đề làm sao chiếc tàu Titanic rất sang trọng, được đóng chắc chắn để ‘không thể chìm được,’ mà lại chìm ngay trong chuyến hải hành đầu tiên); và bài “Titanic Survivor Sells Mementos to Pay for Care” do Jill Lawless viết ngày 16-10-2008 (nói về bà Millvina Dean là hành khách duy nhất còn sống, năm nay đã 96 tuổi, lúc được cứu sống, bà mới có hai tháng tuổi).
Từ những bài báo đó chúng tôi ghi lại mấy chi tiết đặc biệt sau đây: Tàu Titanic được khởi đóng vào năm 1909 tại xưởng đóng tàu Harland & Wolff (Belfast, Bắc Ireland ) và ngụời ta có ý định đóng chiếc tàu này to lớn nhất vào thời đó (cùng với hai chiếc tàu khác là Olympic và Britannic), chiều dài là 900 feet, chiều cao như một ngôi nhà chọc trời thời đó. Ngưòi ta cố gắng đóng chiếc tàu này thật chắc chắn và bảo đảm rất an toàn để có thể đáp ứng với mọi thử thách của biển cả ( như những luồng sóng khổng lồ, hoặc những đụng chạm mạnh mẽ khác…). Vì thế chiếc tàu được đặt tên là Titanic (từ tên Titan, một vị thần dũng mãnh vô song trong thần thoại Hy lạp), và được coi như chiếc tàu không thể chìm được (Unsinkable Ship).
Hạ thủy vào tháng Tư 1912, tàu Titanic khởi hành từ hải cảng Qeenstown (Southampton, Anh Quốc) để đi New York (Hoa Kỳ). Sau bốn ngày hải hành , tàu đụng phải tảng băng vào gần nửa đêm (11g40) thứ Bảy ngày 14-4-1912 và chìm vào qúa trưa (2g20) ngày Chúa Nhật 15-4-1912 tại North Atlantic, vùng hải phận New Foundland (Canada).
Số người trên tàu tổng cộng hơn 2200, gồm 324 hành khách hạng nhất, 285 người hạng hai, và 708 người hạng ba, cùng với thủ thủy đoàn . Hạng nhất gồm nhiều người giàu có , kể cả ông John Jacob Astor, người giàu nhất thế giới hồi đó; hạng ba gồm nhiều người từ các nơi muốn sang Hoa kỳ lập nghiệp. Trong số trên 2200 người trên tàu, có 706 người đã được cứu sống nhờ chiếc tàu Carpatia ; đa số là phụ nữ và trẻ em. Các người khác, kể cả thuyền trưởng E.J.Smith đều chìm theo con tàu xuống lòng biển cả.
Những hành khách sống sót, chỉ còn bà Millvina Dean còn đang sống . Lúc này bà đã 96 tuổi. Bà được bố mẹ bế lên tàu lúc mới có 2 tháng tuổi. Hai ông bà đi chuyến này với ý định đưa gia đình sang Kansas City (Missouri) để lập nghiệp. Cha của bà chết trong tai nạn đó, mẹ bà và người anh của bà cũng được cứu sống. Sau này mãi khi bà đã lên tám, mẹ bà mới kể lại cho bà biết về những hãi hùng trong đêm định mệnh đó. Bà Millvina hiện sống trong một viện dưỡng lão ở Southampton(Anh quốc). Ngoài ra, có một bà người Anh khác là bà Barbara Joyce West Dainton chết vào tháng 11 năm 2007, thọ 96 tuổi. Một bà người Hoa kỳ tên là Lillian Asplund chết vào năm 2006, thọ 99 tuổi. Đó là những nhân chứng cuối cùng của những người được cứu sống .
Mãi đến năm 1985, nhà Hải dương Học Robert Ballard, sau bao nhiêu năm tìm kiếm, mới định được vị trí chiếc tàu Titanic chìm, và xác định được chiếc tàu nằm ở độ sâu 2.5 miles trong lòng đại dương. Vài năm sau người ta đã lấy được một số mảnh vụn lên, và khám phá ra lúc tàu Titanic đụng phải tảng băng, nó đã bể làm đôi, trước khi chìm sâu xuống đại dương, chứ không phải nó đã chìm nguyên chiếc tàu, như người ta đã tưởng . Hơn nữa, trong lúc tàu gặp tai nạn, sắp sửa chìm, hầu hết hành khách đã đổ dồn về phía sau chiếc tàu khổng lồ này, trong khi nó từ từ chìm sâu xuống lòng đại dương và đưa dần họ vào cuộc hành trình đi về Vĩnh cửu!’.